Tuesday, September 29, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 11

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 11 -

Tháp Babel


[1] Khắp nơi trên đất cùng một ngôn ngữ, từng tiếng như nhau. [2] Xảy ra là trong khi họ thiên cư bên phương Ðông thì họ đã tìm thấy một cánh đồng ở đất Sinêar; và họ đã đậu cư ở đó. [3] Họ nói với nhau: "Nào! Ta hãy đúc gạch và nung lò!" Gạch, họ lấy làm đá, và lịch thanh làm hồ. [4] Ðoạn họ nói: "Nào! Ta xây thành ta ở, và xây tháp, ngọn sao cho thấu trời! Ta hãy gây danh cho ta! ngõ hầu ta khỏi bị phân tán ra khắp mặt đất". [5] Yavê đi xuống để xem thành và và cây tháp, con cái loài người đang xây. [6] Và Yavê nói: "Này hết thảy chúng là một dân duy nhất, một ngôn ngữ như nhau. Chúng đã bắt đầu làm thế, thì từ nay còn có mưu định nào mà chúng lại không có thể làm nổi. [7] Nào! Ta xuống! Ở đó, Ta hãy làm cho ngôn ngữ chúng ra ba la ba láp, sao cho chúng không hiểu được ngôn ngữ của nhau". [8] Và tự đó Yavê đã phân tán họ ra khắp mặt đất. Và họ đã thôi xây thành. [9] Bởi thế mà thiên hạ gọi tên thành là Babel vì ở đó Yavê đã làm cho ra ba la ba láp ngôn ngữ của khắp nơi trên đất. Và chính tự đó Yavê đã phân tán họ ra khắp mặt đất.

Các Tổ phụ sau lụt Hồng thủy

[10] Ðây là dòng dõi của Sem: Sem sống được một trăm năm thì đã sinh ra Arpakshad, hai năm sau Hồng thủy. [11] Sau khi sinh ra Arpakshad, Sem đã sống năm trăm năm và ông đã sinh con trai con gái.

[12] Arpakshad sống được ba mươi lăm năm, thì sinh ra Selakh. [13] Sau khi sinh ra Selakh, Arparkshad đã sống bốn trăm lẻ ba năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[14] Selakh sống được ba mươi năm, thì đã sinh Eber. [15] Sau khi sinh ra Eber, Selakh đã sống bốn trăm lẻ ba năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[16] Eber sống được ba mươi mốn năm thì đã sinh ra Pêleg. [17] Sau khi sinh ra Pêleg, Eber đã sống bốn trăm ba mươi năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[18] Pêleg sống được ba mươi năm thì đã sinh ra Rơu. [19] Sau khi sinh ra Rơu, Pêleg đã sống hai trăm lẻ chín năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[20] Rơu sống được ba mươi hai năm thì đã sinh ra Sôrug. [21] Sau khi sinh ra Sơrug, Rơu đã sống hai trăm lẻ bảy năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[22] Sơrug sống được ba mươi năm thì đã sinh ra Nakhor. [23] Sau khi sinh ra Nakhor, Sơrug đã sống hai trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[24] Nakhor sống được hai mươi chín năm thì đã sinh ra Terakh. [25] Sau khi sinh ra Terakh, Nakhor đã sống một trăm mười chín năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[26] Terakh sống được bảy mươi năm thì đã sinh ra Abram, Nakhor, và Kharan.

Dòng dõi của Têrakh

[27] Ðây là dòng dõi của Têrakh: Têrakh sinh ra Abram, Nakhor, và Kharan. Kharan sinh ra Lot. [28] Kharan đã chết trước mặt Têrakh, cha mình, ở nơi sinh quán, Ur của dân Kanđê. [29] Abram và Nakhor đã cưới vợ: tên người vợ của Abram là Saray, và tên người vợ của Nakhor là Milkah, con của Kharan: (Kharan) là cha của Milkah và Yiskah. [30] Vả Saray là người son sẻ: bà không có con. [31] Têrakh đã đem Abram con ông và Lot cháu ông và là con của Kharan, cùng với Saray, con dâu của ông, vợ của Abram, con ông. Ông đã đem họ ra khỏi Ur của dân Kanđê để đến đất Canaan. Họ đến Haran và đã đậu cư ở đó. [32] Ngày đời của Têrakh là hai trăm lẻ năm năm. Ðoạn ông chết tại Haran.

* * *

Sunday, September 27, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 10

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 10 -

Các dân tộc

[1] Ðây là dòng dõi con cái Noê, Sem, Kham và Yaphet. Ðã sinh ra cho họ con cái sau Hồng thủy. [2] Con cái của Yaphet: Gomer, Magog, Maday, Yavan, Tubal, Môsek, Tiras. [3] Con cái của Gomer: Askênaz, Riphat, Togarmah. [4] Con cái của Yavan: Elisa, Tarsis, Kittim, Dodamin. [5] Phát xuất từ họ, những người đã di thực đến các đảo của các nước. Ðó là con cái của Yaphet, trong các miền của họ mỗi người tùy theo tiếng nói, tùy theo thị tộc, trong các nước của họ.

[6] Con cái của Kham: Kush, Misrain, Put, Canaan. [7] Con cái của Kush: Xêba, Havila, Sabta, Raamah, Sabtơea. Con cái của Raamah: Sêba, Ðơđan.

[8] Kush đã sinh ra Nemrod. Ông là người thứ nhất đã nên hùng cường trên đất. [9] Ông đã là tay thiện xạ trước nhan Yavê. Bởi thế ngạn ngữ nói rằng: "Như Nemrod, tay thiện xạ trước nhan Yavê". [10] Khởi điểm nước ông là Babel, Erek, Akkad, Kalmet, trong đất Sinêar. [11] Từ nơi đất ấy, ông xuất chinh chiếm Assur, và xây Ninivê, và các công trường của thành, và Kalah, [12] rồi Rêsen giữa Ninivê và Kalah (Ðó là một thành lớn).

[13] Misrain đã sinh ra các dân xứ: Lud, Anem, Lơhab, Naphtuk, [14] Patros, Kaslukh và Kaptor, tự đó phát xuất ra dân Philitin.

[15] Canaan đã sinh ra Siđôn là con đầu lòng, rồi Khet. [16] Dân Yơbusi, Amori, Ghirgasi, [17] dân Khiuvi, Arqi, Sini, [18] dân Arvađi, Sơmari, Khamati. Rồi các thị tộc Canaan đã phân tán ra. [19] lãnh thổ của dân Canaan gồm từ Siđôn, mãi thấu Ghêfar, Gaza và mãi thấu Sođôm, Gomora, Admah và Sơboyim cho đến Lêsa. [20] Ðó là con cái của Kham tùy theo thị tộc và tiếng nói của họ trong các miền các nước của họ.

[21] Cả Sem nữa, cũng đã có con cái sinh ra, ông là cha tất cả những cn cái của Eber và là anh cả của Yaphet.

[22] Con cái của Sem: Elam, Assur, Arpakshad, Lud, Aram. [23] Con cái của Aram: Us, Khul, Gheter, Mash.

[24] Arpakshad đã sinh ra Selakh. Selakh đã sinh ra Eber. [25] Eber có hai người con: tên người thứ nhất là Peleg, vì vào thời ông, đất đã bị phân chia, và tên em là Yoqtan. [26] Yoqtan đã sinh ra Almođađ, Seleph, Khaxarmavet, Yarakh, [27] Hadoram, Uzal, Ðiqlah, [28] Obal, Abimael, Sêba, [29] Ophir, Havila, Yobab. Ðó là những con của Yoqtan. [30] Nơi ở của họ, từ Mêsa, mãi thấu Sephar là vùng núi phía Ðông.

[31] Ðó là con cái của Sem tùy theo thị tộc và tiếng nói của họ, trong các miền các nước của họ. [32] Và đó là các thị tộc của con cái Noê, tùy theo dòng dõi của họ, trong các nước của họ. Phát xuất từ họ những dân đã di thực trên đất sau Hồng thủy.

* * *

Thursday, September 24, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 09

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 09
-

Trật tự mới

[1] Và Thiên Chúa đã chúc lành cho Noê và các con ông. Người phán với chúng: "Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất. [2] Oai các ngươi sẽ làm cho mãnh thú trên đất, mọi chim trời, mọi vật bò dưới đất và mọi cá trong biển phải hãi sợ kinh khiếp. Chúng đều được phó nộp trong tay các người. [3] Mọi vật máy động sinh sống sẽ là thức ăn của các ngươi. Một thể như cỏ cây và nộn thảo xanh tươi, Ta ban tất cả cho các ngươi. [4] Song le các ngươi không được ăn thịt với mạng nó, máu huyết nó. [5] Song le, Ta sẽ đòi máu huyết tính mạng các ngươi, Ta sẽ đòi mạng sống nơi các loài thú vật. Ta sẽ đòi mạng sống nơi tay ngươi, nơi tay của anh em ngươi.

[6] Ai đổ máu người, do người, máu nó sẽ phải đổ ra. Vì theo hình ảnh Thiên Chúa, (Thiên Chúa) đã làm ra con người.

[7] Vậy các ngươi, hãy sinh sôi nảy nở và lan tràn ra trên đất, mà thống trị nó".

[8] Thiên Chúa đã phán bảo Noê và các con ông ở bên ông mà rằng: "[9] Phần Ta, này Ta lập giao ước của Ta với các ngươi và dòng giống các ngươi đến sau các ngươi, [10] cùng với mọi sinh mạng sống với các ngươi, với chim chóc, thú vật, dã thú với các ngươi, tóm lại mọi vật đã tự tàu đi ra, mọi sinh vật trên đất. [11] Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: Mọi loài có xác sẽ không còn bị nước Hồng thủy tiêu trừ. Sẽ không còn có Hồng thủy đến hủy diệt cõi đất".

[12] Và Thiên Chúa phán: "Này là dấu giao ước Ta đặt giữa Ta và các ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở với các ngươi, đời đời mãi mãi: [13] Vòng cung của Ta, Ta đặt trên mây và nó sẽ là dấu giao ước giữa Ta và cõi đất. [14] Sẽ xảy ra là: khi Ta vun mây trên đất và vòng cung ló hiện trên mây. [15] Ta sẽ nhớ đến giao ước giữa Ta và các ngươi và tất cả chúng sinh, mọi loài có xác và nước sẽ không còn dâng lên thành Hồng thủy mà hủy diệt mọi loài có xác. [16] Vòng cung mà có trên mây thời Ta sẽ nhìn mà nhớ đến giao ước vĩnh tồn giữa Thiên Chúa và tất cả chúng sinh, mọi loài có xác ở trên cõi đất".

[17] Và Thiên Chúa đã phán với Noê: "Ðó là dấu giao ước Ta đã lập giữa ta và mọi laòi có xác trên đất".

3- Từ Lụt Hồng Thủy Tới Abraham


Noê và các con

[18] Các người con của Noê đã ra khỏi tàu là Sem, Kham và Yaphet. Kham là Cha của Canaan. 19 Ba người ấy là Con của Noê và dân cư tất cả trần gian đã (phát nguồn) tự họ.

[20] Noê là nông dân đã khởi xướng việc trồng nho. [21] Ông đã uống rượu nho và đâm say, và đã cởi truồng ra trong lều. [22] Kham, cha của Canaan, thấy chỗ kín của cha thì ra ngoài kháo láo với hai anh nó. [23] Nhưng Sem và Yaphet cầm lấy áo choàng, và cả hai nâng áo đằng vai họ rồi đi giật lùi mà đến phủ trên chỗ kín của cha họ, mặt quay nghịch lại, và không nhìn thấy chỗ kín của cha họ. [24] Khi Noê tỉnh say mà biết được điều con út của ông đã làm đối với ông, [25] thì ông đã nói: "Canaan thật đồ chúc dữ! nó hãy làm mạt nô suốt đời cho anh em nó".

[26] Rồi ông nói: "Chúc tụng Yavê Thiên Chúa của Sem, và Canaan hãy là nô lệ của nó.

[27] Xin Thiên Chúa phát gia Yaphet, nó hãy ngụ trong lều trại của Sem và Canaan hãy là nô lệ của nó.

[28] Sau Hồng thủy Noê đã sống ba trăm năm mươi năm. [29] Tất cả ngày đời của Noê là chín trăm năm mươi năm. Ðoạn ông chết.

* * *

Saturday, September 19, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 08

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 08 -

Nước rút

[1] Và Thiên Chúa đã nhớ đến Noê, và mọi mãnh thú, mọi thú vật ở trong chiếc tàu làm một với ông. Và Thiên Chúa cho gió thổi ngang trên đất và nước đã dặt xuống. [2] Bấy giờ các mạch nước uông mang và tò vò các tầng trời đóng lại, và trời đã tạnh mưa. [3] Và nước đã rút dần dần khỏi mặt đất. Mãn một trăm năm mươi ngày thì nước đã giảm. [4] Tháng bảy ngày bảy tháng ấy tàu đã đậu lại trên núi non (xứ) Asarat. [5] Nước cứ giảm dần cho đến tháng mười. Vào tháng mười, ngày mồng một tháng ấy, các đỉnh núi đã ló hiện.

[6] Mãn bốn mươi ngày, Noê mở cửa sổ ông đã làm. [7] Và ông thả ra con quạ. Nó bay ra lượn đi lượn lại cho đến khi nước đã cạn trên đất. [8] Và từ trong, ông thả bồ câu để xem nước đã chảy bớt khỏi mặt đất chưa. [9] Nhưng con bồ câu không tìm ra đâu đậu chân được thì trở về lại với ông trong tàu, vì nước vẫn còn trên mặt toàn cõi đất. Ông đã giương tay, đón lấy nó mà đem vào với mình trong tàu. [10] Ông còn đợi bảy ngày nữa mới lại thả bồ câu ra khỏi tàu. [11] Con bồ câu trở về lại với ông, lúc xế chiều. Và này nơi mỏ nó có cành lá ôliu mới ngắt. Vậy Noê biết là nước đã chảy bớt đi khỏi đất. [12] Ông còn đợi thêm bảy ngày khác nữa, rồi thả bồ câu ra. Nhưng nó đã không trở về lại với ông nữa.

[13] Năm sáu trăm lẻ một (đời Noê) tháng giêng ngày mồng một tháng ấy, nước đã khô cạn trên đất. Noê lật mái tàu để ngó, thì này mặt đất đã khô cạn. [14] Tháng hai ngày hai mươi bảy tháng ấy đất đã khô ráo.

Ra khỏi tàu

[15] Thiên Chúa phán bảo Noê rằng: "[16] Hãy ra khỏi tàu, ngươi, vợ nguơi, con cái ngươi và vợ của chúng làm một với ngươi. [17] Mọi thú vật ở với ngươi, thuộc mọi loài xác thịt: Chim chóc, thú vật, mọi loài côn trùng bò trên đất: ngươi cũng cho chúng ra làm một với ngươi, để chúng nhung nhúc đầy trên đất và sinh sôi nảy nở trên đất". [18] Và Noê đã ra cùng con cái ông, vợ ông và vợ con cái ông làm một với ông. [19] Mọi mãnh thú, mọi thứ côn trùng, mọi thứ chim chóc, mọi giống bò trên đất, theo tông giống của chúng, đều đã ra khỏi tàu.

[20] Và Noê đã xây một tế đàn dâng kính Yavê. Ông đã lấy trong các thú vật thanh sạch và trong các thứ chim thanh sạch mà làm lễ thượng hiến trên tế đàn. [21] Và Yavê đã ngửi hinh hương trấn nộ. Và Yavê đã nói trong lòng: "Ta sẽ không còn rủa độc đất đai lần nữa vì cớ loài người. Vì ngay từ thiếu thời lòng chúng chỉ nặn ra sự dữ. Ta sẽ không còn đả phá chúng sinh lần nữa như Ta đã làm.

[22] Bao lâu đất được còn ngày, tất sẽ không ngơi gieo gặt, lạnh nóng, hạ đông, đêm ngày".

* * *

Thursday, September 17, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 07

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 07 -


Vào tàu

1 Yavê phán với Noê: "Hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta thấy ngươi là người đức nghĩa trước nhan Ta nơi thế hệ này. 2 Trong các thú vật thanh sạch, ngươi hãy lấy với ngươi bảy con, mỗi loại, đực và cái, còn trong các thú vật không thanh sạch (ngươi hãy lấy) hai con đực và cái 3 (và cả chim trời nữa, bảy con mỗi loại, trống và mái), để độ sinh giống má trên cả mặt đất. 4 Vì bảy ngày nữa là Ta sẽ cho mưa xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, và Ta sẽ xóa khỏi mặt đất mọi sinh vật Ta đã làm ra". 5 Và Noê đã thi hành mọi điều Yavê đã truyền cho ông. 6 Noê chẵn sáu trăm tuổi thì Hồng thủy, nước lụt xảy đến trên đất.

7 Và để tránh cơn nước Hồng thủy, Noê đã vào tàu làm một với con cái ông, vợ ông và vợ con cái ông. 8 (Thuộc các thú vật thanh sạch và các thú vật không thanh sạch, và thuộc các chim chóc và thuộc mọi vật bò trên đất, 9 thì cứ từng hai con, đực và cái, đến với Noê mà vào tàu theo như ThiênChúa đã truyền cho Noê). 10 Và sau bảy ngày, nước Hồng thủy đã xảy đến trên đất.

11 Năm sáu trăm đời Noê, tháng hai ngày mười bảy trong tháng, trong ngày ấy, hết các mạch nước của uông mang vĩ đại bật tung và các cửa tò vò tầng trời toang mở. 12 Và mưa đổ xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.

13 Nhằm chính ngày ấy, Noê và Sem, Kham, Yaphet, các con của Noê, vợ Noê, và ba người vợ của các con ông đã vào tàu. 14 Cùng với họ mọi mãnh thú theo loại và mọi thú vật theo loại, mọi côn trùng bò lê trên đất theo loại, mọi thứ chim chóc theo loại, các thú cầm thú có cánh. 15 Chúng đến với Noê mà vào tàu mỗi thứ hai con thuộc mọi xác thịt có sinh khí, 16 và đi vào có một đực một cái thuộc mọi loại xác thịt, chúng vào chiếu theo điều Thiên Chúa đã truyền cho Noê.

Và Yavê đã đóng cửa lại đằng sau ông.

Lụt

17 Và đã xảy đến lụt Hồng thủy trên đất bốn mươi ngày. Nước đã trương đại và nâng tàu mà cất bổng lên khỏi đất. 18 Con nước dâng lên và trương đại lớn lắm trên đất và tàu đã trôi trên mặt nước. 19 Con nước dâng lên lớn lắm, lớn lắm trên đất. Tất cả những núi cao nhất dưới mọi phương trời đều bị phủ lút cả. 20 Nước đã dâng cao mười lăm xích bên trên khiến núi non đều bị phủ lút. 21 Và mọi loài xác thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú, và mọi vật lúc nhúc trên đất, và mọi người hết thảy. 22 Mọi loài có hơi thở nơi mũi, tức là tất cả các vật trên cạn đều chết hết. 23 (Yavê) đã xóa sạch trên đất hết thảy, từ người cho đến súc vật, côn trùng, và chim trời, chúng đều bị xóa sạch khỏi đất và còn lại chỉ có một mình Noê và những gì ở trong tàu làm một với ông. 24 Và nước đã dâng lên trên đất một trăm năm mươi ngày.

* * *

Wednesday, September 16, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 06

Kinh Thánh Cựu Ước
Sách Khởi Nguyên
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 06 -


Con trai Thiên Chúa và con gái loài người

1 Xảy ra là khi loài người đã bắt đầu nên đông đảo trên mặt đất và chúng có con gái sinh ra, 2 thì con cái của Thiên Chúa thấy là con cái loài người, chúng xinh đẹp thật. Và hễ họ ưng ý ai thì họ lấy làm vợ. 3 Và Yavê đã phán: "Khí thiêng của Ta sẽ không có lưu tồn mãi mãi nơi loài người, bởi chúng là xác thịt. Ngày đời của chúng sẽ là một trăm hai mươi năm".

4 Vào những ngày ấy (và còn cả về sau nữa), có những người siêu nhân trên đất, khi những con cái Thiên Chúa đi lại với con gái loài người. Và con gái loài người sinh con cho họ. Ðó là những tay anh hào, những người lừng danh đã có tự ngàn xưa.

2. Lụt Hồng Thủy

Loài người sa đọa

5 Yavê đã thấy sự dữ của loài người đã ra nhiều trên đất, suy tính chúng có nặn ra được gì thì chỉ là độc dữ suốt ngày. 6 Và Yavê hối tiếc vì đã làm ra con người trên đất, và Người đã phải đau phiền trong lòng Người. 7 Và Yavê đã phán: "Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất, loài người Ta đã dựng nên, từ loài người cho đến súc vật, côn trùng và chim trời, vì Ta hối tiếc đã làm ra chúng". 8 Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt Yavê.

9 Ðây là tông tích của Noê: Noê là người đức nghĩa, vẹn toàn giữa những người đồng thời. Noê hằng đi đứng rập với Thiên Chúa. 10 Noê sinh được ba con trai: Sem, Kham, và Yaphet. 11 Ðất đã ra bại hoại trước nhan Thiên Chúa. Ðất đã đầy dẫy những độc ác. 12 Thiên Chúa nhìn xuống đất và này nó đã ra bại họai vì mọi xác phàm đã hủy hoại đường lối của chúng trên đất.

13 Thiên Chúa phán với Noê: "Giờ khánh tận của mọi xác phàm đã đến, Ta đã quyết định [trước nhan Ta]. Bởi chưng vì cớ chúng, đất đã đầy dẫy những độc ác. Vậy này, Ta sẽ hủy diệt chúng khỏi cõi đất. 14 Ngươi hãy làm lấy một cái tàu bằng gỗ bách, ngươi sẽ làm tàu ấy có buồng đoạn lấy lịch thanh trám lại cả trong lẫn ngoài. 15 Ngươi sẽ làm thế này: dài ba trăm xích, rộng năm mươi xích, cao ba mươi xích. 16 Ngươi sẽ làm cho tàu một cái mui và cho kênh mui cao lên một xích, và bên mạn thì trổ một cửa. Ngươi sẽ sắp đặt làm tầng dưới, tầng nhì và tầng thứ ba.

"17 Phần Ta, này Ta cho Hồng thủy đến trên cõi đất, mà hủy hoại mọi xác thịt có sinh khí dưới gầm trời. Mọi sự trên đất sẽ biến thành thây ma. 18 Nhưng với ngươi, Ta lập giao ước của Ta. Và ngươi sẽ vào tàu, ngươi và con cái ngươi, vợ ngươi và vợ con cái ngươi làm một với ngươi. 19 Trong mọi sinh vật, mọi xác thịt, ngươi sẽ đem vào tàu mỗi loại hai con, để độ sinh cho chúng, làm một với ngươi. Chúng sẽ là một con đực, một con cái. 20 Thuộc chim chóc theo loại, thuộc thú vật theo loại, thuộc mọi côn trùng trên đất theo loại, phải có mỗi thứ hai con đến với ngươi, hầu được độ sinh. 21 Còn ngươi, hãy lấy mọi thức ăn được, hãy tích trữ lấy với ngươi. Ðó là lương thực của ngươi và của chúng nó". 22 Và Noê đã làm mọi sự: như Thiên Chúa truyền cho ông làm sao, ông đã làm y như vậy.

* * *

Tuesday, September 15, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 05

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 05 -

Các tổ phụ trước lụt Hồng thủy

1 Ðây là phổ hệ của Ađam: Ngày Thiên Chúa dựng người thì theo mường tượng của Thiên Chúa, Người đã làm ra nó. 2 Là nam là nữ Người đã dựng ra chúng. Và Người đã chúc lành cho chúng và gọi tên chung là "Người", ngày chúng đã được dựng ra.

3 Ađam sống được một trăm ba mươi năm thì đã sinh con theo mường tượng của ông, như hình ảnh ông. Và ông đã gọi tên nó là Set. 4 Ngày đời Ađam, sau khi sinh ra Set, là tám trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 5 Tất cả ngày đời Ađam đã sống là chính trăm ba mươi năm. Ðoạn ông chết.

6 Set sống được một trăm lẻ năm năm thì đã sinh ra Enosh. 7 Sau khi sinh ra Enosh, Set đã sống tám trăm lẻ bảy năm, ông đã sinh con trai con gái. 8 Tất cả ngày đời của Set là chín trăm mười hai năm. Ðoạn ông chết.

9 Enosh sống được chín mươi năm thì sinh ra Qênan. 10 Sau khi sinh ra Qênan, Enosh đã sống tám trăm mười lăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 11 Tất cả ngày đời của Enosh là chín trăm lẻ năm năm. Ðoạn ông chết.

12 Qênan sống được bảy mươi năm thì đã sinh ra Mahalalel. 13 Sau khi sinh ra Mahalalel, Qênan đã sống tám trăm bốn mươi năm. Ông đã sinh con trai con gái. 14 Tất cả ngày đời của Qênan là chín trăm mười năm. Ðoạn ông chết.

15 Mahalalel sống được sáu mươi lăm năm thì đã sinh ra Yaređ. 16 Sau khi sinh ra Yaređ, Mahalalel đã sống tám trăm ba mươi năm. Ông đã sinh con trai con gái. 17 Tất cả ngày đời của Mahalalel là tám trăm chín mươi lăm năm. Ðoạn ông chết.

18 Yaređ sống được một trăm sáu mươi hai năm, thì đã sinh ra Hênóc. 19 Sau khi sinh ra Hênóc, Yaređ đã sống tám trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 20 Tất cả ngày đời của Yaređ là chín trăm sáu mươi hai năm. Ðoạn ông chết.

21 Hênóc sống được sáu mươi lăm năm, thì đã sinh ra Mathusalem. 22 Hênóc đã đi với Thiên Chúa. Sau khi sinh ra Mathusalem, Hênóc đã sống ba trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 23 Tất cả ngày đời của Hênóc là ba trăm năm. 24 Và Hênóc đã đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa vì Thiên Chúa đã cất ông đi mất.

25 Mathusalem sống được một trăm tám mươi bảy năm thì đã sinh ra Lamek. 26 Sau khi sinh ra Lamek, Mathusalem đã sống bảy trăm tám mươi hai năm. Ông đã sinh con trai con gái. 27 Tất cả ngày đời của Mathusalem là chín trăm sáu mươi chín năm. Ðoạn ông chết.

28 Lamek sống được một trăm tám mươi hai năm thì đã sinh con. 29 Ông đã gọi tên nó là Noê, mà rằng: "Chính nó sẽ cho ta được an ủi thoát khỏi việc vàn của ta, thoát khỏi đau khổ tay ta làm đất đai mà Yavê đã chúc dữ". 30 Sau khi sinh ra Noê, Lamek đã sống năm trăm chín mươi lăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 31 Tất cả ngày đời của Lamek là bảy trăm bảy mươi bảy năm. Ðoạn ông chết. 32 Noê được năm trăm tuổi thì sinh ra Sem, Kham và Yaphet.


* * * 


Monday, September 14, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 04

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 04 -

Cain và Abel

1 Và người đã biết Eva, vợ ông, và bà đã có thai và sinh hạ Cain. Bà nói: "Tôi đã tậu được một đàn ông cùng với Yavê". 2 Bà còn sinh ra em nó là Abel. Và Abel làm nghề chăn cừu, Cain thì cày ruộng. 3 Xảy ra là sau nhiều ngày, Cain dâng trái trăng đồng ruộng làm lễ vật cho Yavê. 4 Còn Abel, phần mình thì dâng chiên cừu đầu lứa cùng với mỡ béo của chúng. Và Yavê đã ngó đến Abel và lễ vật của nó. 5 Còn Cain và lễ vật của nó Người không ngó đến, Cain tức tối lắm. Nó sầm mặt xuống. 6 Bấy giờ Yavê phán với Cain: "Hà cớ chi ngươi phải tức tối? Hà cớ chi ngươi phải sầm mặt xuống? 7 Há không phải là, nếu ngươi ở tốt lành, ngửng lên; nếu ngươi không tốt lành, tội mai phục, trên ngươi sự hăm he của nó, và ngươi sẽ khống chế nó". 8 Cain nói với Abel em nó: "Ta hãy ra đồng đi!" Và xảy ra là khi chúng ở ngoài đồng, thì Cain đã xông vào Abel em nó mà giết đi.

9 Yavê đã phán với Cain: "Abel, em ngươi đâu?" Nó thưa: "Tôi không biết! Tôi có phải là người canh giữ em tôi ư?" 10 Người phán: "Ngươi đã làm gì? Tiếng máu của em ngươi từ đất kêu oán lên Ta. 11 Bây giờ, ngươi hãy là đồ chúc dữ và bật khỏi mặt đất màu mỡ đã há miệng hớp lấy từ tay ngươi máu em ngươi. 12 Ngươi có canh tác đất đai, đất đai sẽ chẳng còn cho ngươi sức lực của nó. Ngươi sẽ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất".

13 Cain thưa với Yavê: "Tội vạ tôi quá lớn làm sao mang nổi. 14 Này hôm nay Người đuổi tôi khỏi mặt đất màu mỗ và khuất khỏi nhan Người, nên kẻ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất. Và có ai bắt gặp tôi tất sẽ giết tôi". 15 Yavê phán với nó: "Không thế đâu! Ai giết Cain, Cain sẽ được báo thù gấp bảy!" Và Yavê đã đánh dấu trên Cain để đừng ai hạ thủ nó bất cứ ai gặp nó. 16 Cain đã ra khỏi nhan Yavê và cư ngụ đất Nôđ phía đông Eđen.

Dòng dõi Cain

17 Cain đã biết vợ mình, và bà đã có thai và sinh hạ Hênóc. Và ông đã là người xây thành. Và ông đã gọi thành ấy là Hênóc theo tên con mình. 18 Rồi Hênóc sinh ra một người con là Irad. Irad sinh ra Mơhuyael và Mơhuyael sinh ra Mơtusael, Mơtusael sinh ra Lamek. 19 Lamek đã lấy hai vợ. Tên vợ cả là Ađah và tên vợ thứ là Sillah. 20 Ađah sinh hạ Yabal là cha những người ở lều và nuôi súc vật. 21 Và tên em nó là Yubal cha mọi kẻ chơi đàn địch. 22 Và cả Sillah nữa cũng đã có con là Tubal-Cain, là cha mọi kẻ luyện rèn đồng sắt. Và em gái của Tubal-Cain là Naamah.

23 Lamek nói với hai vợ:

"Adah và Sillah hãy nghe tiếng ta,
thê thiếp Lamek, hãy gióng tai.
Vì bị thương, ta giết một người,
(Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng.

24 Vì Cain có được báo thù gấp bảy,
thì Lamek gấp bảy với bảy mươi".

Set và dòng dõi

25 Và Ađam còn biết vợ lần nữa và bà đã sinh hạ con trai và gọi tên là Set: "Vì Thiên Chúa, bà nói, đã sắp đặt cho tôi dòng dõi khác, thay chỗ Abel, Cain đã giết chết nó". 26 Và cho cả Set nữa, một người con trai đã sinh ra. Và ông gọi tên nó là Enosh. Bấy giờ người ta đã bắt đầu kêu Danh Yavê.

* * *

Sunday, September 13, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 03

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 03 -


Sa ngã


1 Và rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú Yavê Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Hẳn Thiên Chúa đã phán: Các ngươi không được ăn cây nào trong vườn?" 2 Người đàn bà nói với rắn: "Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. 3 Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: Các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết". 4 Và rắn đã nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Quả nhiên Thiên Chúa biết: ngày nào các người ăn nó, mắt các người sẽ mở ra và các người sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu". 6 Và người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quí thực, cái cây ấy, để được tinh khôn. Và bà hái lấy quả mà ăn, bà cũng đã trao cho chồng ở bên bà. Và ông đã ăn. 7 Và mắt cả hai đứa đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng. Chúng đã khâu lá vả làm khố cho mình.

8 Chúng nghe tiếng bước Yavê Thiên Chúa tản bộ trong vườn với gió hiu hiu thổi chiều hôm, và người với vợ đi núp mình khuất mặt Yavê Thiên Chúa giữa những cây trong vườn. 9 Và Yavê Thiên Chúa gọi người mà rằng: "Ngươi ở đâu?" 10 Và người nói: "Tôi nghe tiếng bước chân của Người trong vườn và tôi sợ, vì tôi trần truồng, nên tôi đã núp mình đi". 11 Và Người đã phán: "Ai đã mách cho ngươi là ngươi trần truồng? Họa chăng là ngươi đã ăn cây Ta đã cấm ngươi không được ăn!" 12 Và người thưa: "Người đàn bà mà Người đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây cho tôi, nên tôi đã ăn".

13 Và Yavê Thiên Chúa nói với người đàn bà: "Tại sao ngươi làm thế?"
Và người đàn bà thưa: "Rắn đã phỉnh tôi nên tôi đã ăn".

14 Và Yavê Thiên Chúa phán với con rắn:
"Bởi ngươi đã làm thế,
thì ngươi hãy là đồ chúc dữ,
giữa mọi thú vật, cùng dã thú hết thảy!
Ngươi hãy lê bụng và ăn đất bụi mọi ngày đời ngươi!

15 Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân".

16 Với người đàn bà, Người phán: "Ta sẽ gia tăng đau khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con đẻ cái. Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi".

17 Và với người, Người phán: "Vì ngươi nghe theo tiếng vợ mà ăn cây Ta đã truyền cho ngươi rằng: Ngươi không được ăn, thì đất đai hãy là đồ chúc dữ vì cớ ngươi, có đau khổ ngươi mới nhờ được nó mà ăn mọi ngày đời ngươi.

18 Những gai cùng góc, nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội.

19 Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại bụi đất vì tự đất ngươi được rút ra.
Bởi ngươi là bụi đất ngươi sẽ trở về đất bụi".

20 Người gọi tên vợ mình là "Eva" vì bà là mẹ các sinh linh hết thảy. 21 Và Yavê Thiên Chúa đã làm cho người và vợ nó áo chùng bàng da thú mà mặc cho chúng. 22 Và Yavê Thiên Chúa đã phán: "Này người đã nên như một trong chúng ta để biết được tốt xấu. Bây giờ phải làm sao cho nó đừng giương tay hái cả cây sự sống nữa mà ăn, hầu được sống mãi mãi". 23 Vậy Yavê Thiên Chúa đã xua người khỏi vườn Eden để nó canh tác đất đai tự đó nó đã được rút ra. 24 Và Người đã đuổi người đi. Và ở phía đông vườn Eden Người đặt trấn đóng những Kêrubim và gươm hỏa hào chớp chớp để canh giữ lối cây sự sống.

* * *

Saturday, September 12, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 02

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 02 -

1 Thế là đã được hoàn thành trời và đất và các cơ ngũ của chúng hết thảy.
2 Và ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người làm. Và ngày thứ bảy Người đã nghỉ mọi công việc Người làm.
3 Và Thiên Chúa đã chúc lành cho ngày thứ bảy và Người đã tác thành nó, vì ngày ấy, Người đã nghỉ mọi công việc Người đã tạo dựng.
4a Thế đó sự tích trời đất, khi chúng được dựng nên.

Thử thách
4b Vào ngày Yavê Thiên Chúa làm ra đất và trời,
5 thì trên đất chưa có bụi cây đồng ruộng nào, chưa có cỏ lả đồng ruộng nào, vì Yavê Thiên Chúa không cho mưa xuống trên đất và chưa có người để canh tác đất đai.
6 Một con nước tự đất dẫy lên và cho cả mắt đất uống đã.
7 Yavê Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người đã hà hơi sống vào mũi nó và người đã thành mạng sống.
8 Và Yavê Thiên Chúa đã trồng vườn cây ở Eden, về phía Ðông và Người đặt trong đó, người đã được nắn ra.
9 Và Yavê Thiên Chúa đã cho từ đất mọc lên mọi thứ cây coi sướng mắt, và ăn ngon lành và cây sự sống ở giữa vườn cùng cây sự biết tốt xấu.
10 Một con sông từ Eden chảy đến để cho vườn uống và từ đó, nó chia làm bốn nhánh.
11 Tên nhánh thứ nhất Phisôn. Nó chảy vòng quanh tất cả đất Havila là nơi có vàng.
12 Vàng đất ấy là thứ vàng tốt. Ở đó cũng có nhũ hương và mã não.
13 Và tên sông thứ hai là Ghikhôn. Nó chảy vòng quanh tất cả đất Kush.
14 Và tên sông thứ ba là Tigra. Nó chảy phía đông Assur và sông thứ tư là: Phơrat,
15 Yavê Thiên Chúa đã đem người đặt trong vườn Eden đề nó canh tác và giữ vườn.
16 Và Yavê Thiên Chúa đã truyền dạy người rằng: "Mọi cây trong vườn, ngươi đều được ăn.
17 Nhưng cây "sự biết tốt xấu" ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi sẽ chết".
18 Yavê Thiên Chúa đã phán: "Không tốt, nếu người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp đương đối với nó".
19 Và Yavê ThiênChúa đã nắn ra từ đất đai mọ thứ dã thú và mọi giống chim trời và Người dẫn đến cho người để xem nó gọi làm sao. Và mọi mạng sống hễ người gọi sao thì tên là vậy.
20 Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần người, người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào đương đối.
21 Và Yavê Thiên Chúa đã giáng xuống trên người một giấc tê mê, và nó đã ngủ thiếp đi. Và Người đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lấp thịt vào.
22 Và trên sườn đã rút tự người, Yavê Thiên Chúa đã xây thành người đàn bà. Ðoạn Người dẫn đến với người.
23 Và nó đã nói:
"Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi.
- Nàng sẽ đội danh là "đàn bà" vì đã được rút tự đàn ông".
24 Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác.
25 Và cả hai đều trần truồng, người và vợ nó, mà chúng không hổ ngươi.

* * *

Friday, September 11, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 01

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 01 -

I. KHỞI NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ VÀ LOÀI NGƯỜI


1- Tạo Thành Và Sa Ngã


 Trình thuật tạo thành I

1 Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất.

2 Ðất thời trống không mông quạnh,
và tối tăm trên mặt uông mang
và khí thần là là trên mặt nước.

3 Và Thiên Chúa đã phán: "Hãy có ánh sáng!"
và ánh sáng đã có.

4 Và Thiên Chúa đã thấy rằng ánh sáng thực tốt lành,
và Thiên Chúa đã tách ánh sáng với tối tăm.

5 Và Thiên Chúa đã gọi ánh sáng là Ngày,
và tối tăm thì Người gọi là Ðêm.
Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ nhất.

6 Thiên Chúa đã phán: "Giữa nước hãy có một cái vòm
để nó tách nước với nước". Và đã xảy ra như vậy.

7 Và Thiên Chúa đã làm một cái vòm,
cũng đã tách nước phía dưới vòm với nước bên trên vòm.

8 Và Thiên Chúa đã gọi vòm ấy là Trời.
Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ hai.

9 Và Thiên Chúa đã phán: "Nước dưới vòm hãy tụ lại một chỗ,
để cho khô ráo lộ hiện". Và đã xảy ra như vậy.

10 Và Thiên Chúa đã gọi khô ráo là Ðất,
còn khối nước tụ lại là Biển.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

11 Và Thiên Chúa đã phán: "Ðất hãy xanh um thảo vật xanh tươi,
rau cỏ nảy hạt giống và cây có quả sinh quả theo loại trên đất,
những quả trong có hạt giống". Và đã xảy ra như vậy.

12 Và đất đã mọc thảo vật xanh tươi, rau cỏ nảy hạt giống theo loại,
cây sinh quả trong có hạy giống theo loại.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

13 Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ ba.

14 Và Thiên Chúa đã phán: "Hãy có đèn đóm trên vòm trời
để tách ngày với đêm, và chúng hãy nên
dấu định thời đại hội, định ngày, định năm.

15 Chúng hãy làm đèn đóm nơi vòm trời để soi mặt đất".
Và đã xảy ra như vậy.

16 Và Thiên Chúa đã làm hai cái đèn lớn
- cái đèn lớn hơn để cai ngày, cái đèn nhỏ hơn để cai đêm.
Và thêm có các tinh sao.

17 Và Thiên Chúa đã đặt chúng trên vòm trời để soi mặt đất,

18 Và để cai ngày và đêm cùng để tách sáng với tối.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

19 Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ tư.

20 Và Thiên Chúa đã phán:
"Nước hãy nhung nhúc những sinh vật lúc nhúc,
và chim hãy bay lượn bên trên đất, nơi mặt vòm trời!"
Và đã xảy ra như vậy.

21 Và Thiên Chúa đã dựng nên những thuồng luồng to lớn,
và mọi thứ snh vật vùng vẫy lúc nhúc dưới nước
theo loại chúng và mọi thứ chim có cánh, theo loại chúng.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

22 Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng mà rằng:
"Hãy sinh sôi nảy nở, và hãy nên đầy dẫy trong nước.
Chim chóc hãy sinh sôi trên đất".

23 Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ năm.

24 Và Thiên Chúa đã phán: "Ðất hãy sản xuất ra sinh vật
theo loại: súc vật, côn trùng, mãnh thú theo loại chúng".
Và đã xảy ra như vậy.

25 Và Thiên Chúa đã làm ra mãnh thú theo loại
và súc vật theo loại, và mọi thuứ côn trùng trên đất cát theo loại.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

26 Và Thiên Chúa đã phán: "Ta hãy làm ra người
theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta.
Chúng hãy trị trên cá biển và chim trời, và trên súc vật và
mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên đất".

27 Và Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình.
Theo hình ảnh của Thiên Chúa Người đã dựng nên nó.
Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng.

28 Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng
và Thiên Chúa đã pah1n bảo chúng:
"Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất.
Và hãy bá chủ nó! hãy tự trị trên cá biển và chim trời
và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất".

29 Và Thiên Chúa đã phán:
"Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ lả sinh hạt giống
có trên cả mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống,
chúng sẽ làm của ăn cho các ngươi.

30 Và cho mọi loài sinh vật trên đất và mọi thứ chim trời
và mọi loài nhung nhúc trên đất, loài có sinh khí nơi mình,
Ta ban các thứ cỏ cây xanh tươi làm của ăn".
Và đã xảy ra như vậy.

31 Và Thiên Chúa đã thấy mọi sự Người đã làm ra:
và này tốt lành quá đỗi. Và đã có một buổi chiều
và đã có một buổi mai.
Ngày thứ sáu.

Monday, September 7, 2015

TIỂU DẪN VÀO NGŨ KINH

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
OLD TESTAMENT

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

TIỂU DẪN VÀO NGŨ KINH

Tên gọi, phân chia, nội dung

Năm quyển đầu của Cựu Ước làm thành một khối, người Dothái gọi chung là "Torah", tiếng Hipri này thường được dịch là Lề luật. Nhưng đúng nghĩa hơn thì phải dịch là Giáo điều, vì các sách này không chỉ có Luật mà còn gồm nhiều điều khác với mục đích dạy dỗ. Việc phân chia bản văn thành năm quyển, xấp xỉ bằng nhau có thể đã được thực hiện trong các thế kỷ V và VI trước Công nguyên và trong mục đích để dễ sử dụng.

Năm quyển ấy là: Kinh Khởi nguyên (Kn), Kinh Xuất hành (Xh), Kinh Lêvi (Lv), Kinh Dân số (Ds), Kinh Thứ luật (Tl). Kiểu đặt tên này là dịch của bản bằng tiếng HiLạp và Latinh, đã dựa vào nội dung của mỗi quyển mà đặt tên. Người Hipri thì lại khác. Họ lấy những chữ đầu hoặc những chữ quan trọng đầu tiên của bản văn để gọi mỗi quyển.

Năm quyển này kể lại một cách liên tục lịch sử của dân Israel từ khởi thủy vũ trụ cho đến khi Môsê chết.

Kinh Khởi nguyên được chia thành hai phần không đều nhau: Phần đầu, 1-11, trình bày lịch sử về thời sơ khai, có thể được coi như một nhập đề cho lịch sử cứu chuộc kể trong suốt cả bộ Kinh Thánh. Lịch sử ấy lên đến tận nguồn gốc của vũ trụ và bao gồm toàn thể nhân loại. Lịch sử ấy kể lại việc tạo dựng vũ trụ và con người, sự sa ngã buổi đầu với những hậu quả của nó, tình trạng đồi trụy mỗi ngày mỗi gia tăng và đưa đến hình phạt là trận lụt Hồng Thủy. Từ Noê, con người lại sinh sôi nảy nở trên thế giới, nhưng các bản gia phả cứ càng ngày càng thu hẹp để cuối cùng đặt trọng tâm nơi Abraham cha của dân tộc được tuyển lựa.

Từ 12-50: Dung mạo các tổ phụ lớn. Abraham là con người của lòng tin. Lòng thuần phục của ông đã được Thiên Chúa tưởng lệ, hứa ban cho ông một dòng giống đông đảo và cho con cháu ông một Ðất Thánh. (12 1-25 18) Yacob là con người mánh lới, cướp của anh là Esau lời chúc lành của cha là Ysaac, mánh khóe hơn cả cậu là Laban. Nhưng tất cả những sự khôn khéo ấy không đưa tới đâu nếu Thiên Chúa đã không, ngay từ trước khi ông sinh ra, thương ông hơn Esau và lặp lại với ông lời hứa Giao ước đã ban cho Abraham (25 19-36). Ysaac là một dung mạo lu mờ giữa Abraham và Yacob. Cuộc đời của ông chỉ được kể lại đi kèm với cuộc đời của cha và của con. Mười hai người con của Yacob là những ông tổ của 12 chi tộc Israel. Yuse, một trong số 12 người ấy, con người đầy khôn ngoan được nói tới trong hơn mười đoạn của phần cuối sách Khởi nguyên (37-50 trừ 3849). Trình thuật này, khác với trình thuật trên được diễn ra không một lần can thiệp hữu hình của Thiên Chúa và không một mạc khải mới nào, nhưng nó là cả một giáo huấn: Nhân đức của người khôn ngoan được bội thưởng và sự quan phòng của Thiên Chúa biến đổi thành điều hay, điều tốt những lỗi lầm của người đời.

Sách Khởi nguyên là một khối hoàn bị: Lịch sử các tổ phụ. 3 quyển sau lập thành một khối khác, trong đó việc thành lập dân được chọn và việc thiết lập lề luật xã hội và tôn giáo của nó được ghi lại trong khung cảnh của cuộc đời Môsê. Sách Xuất hành bàn tới hai đề tài chính: Việc giải phóng khỏi Aicập 1 1-15 21 và Giao ước tại Sinai 19 1-40 38; hai đề tài được nối với nhau bằng một đề tài phụ, cuộc hành trình trong sa mạc 15 22-18 27. Môsê, sau khi nhận được mạc khải tên Yavê trên núi của Thiên Chúa, đã dẫn đưa người Dothái vừa được giải phóng khỏi cảnh tôi mọi tới đó. Trong một cuộc Thần hiện ngoạn mục, Thiên Chúa kết Giao ước với dân và ban cho dân ấy những Lề luật của Người. Giao ước vừa được thiết lập đã bị vi phạm bởi việc thờ lạy bò vàng. Nhưng Thiên Chúa đã tha thứ và tái lập Giao ước. Một loạt chỉ thị hoạch định việc thờ tự trong sa mạc.

Sách Lêvi, có tính cách hầu như hoàn toàn pháp chế, tạm cắt ngang trình thuật các biến cố. Quyển này gồm có: Một nghi thức về tế lễ 1-7; nghi thức phong chức các tư tế, áp dụng cho Aharôn và các con của ông 8-10, những luật lệ liên quan tới thanh sạch hoặc uế tạp 11-15, kết thúc với nghi thức về ngày đại xá tội 16; "Luật Thánh Thiện" 17-26 bao gồm một lịch trình phụng vụ, 23, và kết thúc với những lời chúc lành và chúc dữ, 26. Chương 27, phần bổ túc định rõ những điều kiện để chuộc người, vật và các thứ khác hiến cho Yavê.

Sách Dân số lấy lại đề tài cuộc hành trình trong sa mạc. Cuộc khởi hành từ Sinai được sửa soạn bởi việc kiểm tra dân chúng, 1-4 và những cuộc tiến dâng, cung hiến Nhà Tạm, 7. Sau việc cử hành lần thứ hai, lễ Pas-char, mọi người rời Núi Thánh, 9-10 và từng chặng một, tới Cades. Tại đây dân đã gặp thất bại trong nỗ lực tiến vào Canaan bằng phía Nam 11-14. Sau cuộc lưu lại tại Cades, mọi người lại lên đường và tới cánh đồng Moab, đối diện với Yêrikhô 20-25. Người Mađian bị đánh bại và các bộ tộc Gađ và Ruben lưu lại ở Bên-kia-sông Yorđan, 31-32. Một bản tóm tắt các chặng đường của Xuất hành 33. Xung quanh các trình thuật này, quy tụ một số những quy luật hoàn bị cho bản luật tại Sinai hoặc chuẩn bị cho việc lập cư tại Canaan 5-6; 8; 15-19; 26-30; 34-36.

Sách Thứ luật có một bố cục đặc biệt; đây là một bản Dân luật và luật Tôn giáo, 12-26 15 được đóng khung trong một diễn từ lớn của Môsê. 5-1126 16-28. Cả khối này lại được đóng khung bởi diễn văn đầu tiên 1-4 và diễn văn thứ ba, 29-30 của Môsê và sau đó những khúc liên quan tới giai đoạn chót của cuộc đời Môsê: Sứ vụ của Yôsua, bài ca và chúc lành của Môsê, cái chết của Môsê, 31-34. Bản Thứ luật lấy lại một phần các Lề luật được ban trong sa mạc. Các diễn văn nhắc lại những biến cố chính của việc Xuất hành, trên núi Sinai và cuộc chinh phục khởi đầu: Và làm nổi bật ý nghĩa tôn giáo của các biến cố ấy, nhấn mạnh tầm mức của Lề luật và thôi thúc dân trung tín.

Soạn tác

Các văn kiện xưa, ngay cả Tân Ước (coi Mc 12 19 Mt 8 4 Cv 3 22 Rm 9 15 10 5 2C 3 15...), đều có nói là: "Môsê viết". Kiểu nói này chỉ là một kiểu nói sẵn có vì ước lệ, không phải một quả quyết xác định tác giả. Vì không thể nào Môsê đã viết hay đọc cho thư ký viết tất cả. Có nhiều dấu cho thấy các luật kê trong đó đã xuất hiện vào nhiều thời buổi khác nhau, và không thể dung hòa được với nhau. Xin đan cử một thí dụ: Luật về bàn thờ và nơi tế tự. Có luật dạy chỉ được xây tế đàn bằng đá nguyên cả tảng, không được đẽo đục. Luật khác dạy làm làm tế đàn bằng đồng. có luật dạy được xây bàn thờ bất cứ ở đâu, luật khác lại dạy chỉ có một nơi tế tự duy nhất (coi Xh 20 24-26 27 1-8 Tl 12 11).

Có lắm điều lặp đi lặp lại. Một thí dụ: Thập giới được nói đến hai lần, dưới hai hình thức chẳng khác nhau bao nhiêu (Xh 20 1-17 và Tl 5 6-22).

Bây giờ khảo sát đến cách hành văn và từ ngữ, ta thấy năm sách này đã kết thành một bởi những đoạn rất khác nhau. (Có thể so sánh truyện Tạo thành trong đoạn Khởi nguyên 1 và Kn 2). Các học giả thường nhận có bốn giòng văn khác nhau, đã được đan kết lại một cách tinh vi.

Bốn giòng văn đó là:

- giòng văn Yavít (vì dùng Danh Yavê ngay từ đầu),

- giòng văn Êlohit (vì thường dùng Danh Thiên Chúa là Elohim),

- giòng văn Thứ luật (tất cả kinh Thứ luật), và

- giòng văn Tư tế.

Cân nhắc tất cả những điều quan sát được trong khi đọc Ngũ kinh, và đối chiếu với lịch sử Israel, người ta rút ra kết luận này: Ngũ kinh là một bộ sưu tập: Luật lệ có, giảng thuyết diễn từ có, trình thuật có - thuộc những giai đoạn lịch sử khác nhau, từ Môsê cho đến thế kỷ thứ 4 hay thứ 5 trước Công nguyên.

Vậy Môsê như một môi giới mạc khải và Giao ước, lập luật về tế tự và pháp luật, là khởi điểm cho một truyền thống có tính cách qui luật, ký thác cho hàng tư tế. Hàng tư tế vun trồng vốn ấy làm cho truyền thống tiến triển về các định chế xã hội và tôn giáo, cùng về đạo đức. Công việc ấy được đúc kết từng đoạn hay từng chương lớn, trong những thư tịch tiêu biểu như Lời Thiên Chúa cho Israel. Sưu tập đầy đủ trong đó các bản văn được đâu lại hình như có liên lạc với sứ mạng của Ezra (Ezra 7 14 25-26, Nêhêmya 8).

Trong các sách ấy, ta thấy hòa lẫn với nhau năm yếu tố văn chương này:

- Một cái nhìn tổng quát trên nhân loại, có lẽ khá bi quan, nhưng cũng nói lên một hy vọng hứa hẹn cho mọi người (cách riêng Khởi nguyên đoạn 1 đến 9).

- Những ký ức lịch sử về việc thiên cư của các Tổ phụ, và việc Israel ra khỏi Aicập. Ðó là hai "hồi" quan trọng nhất cho thiên triệu Israel được làm Dân chọn.

- Những khúc trình thuật dài dòng hơn cho thấy thiên triệu ấy diễn tiến thăng trầm. Những ký ức rất cựu trào đã được nhìn ngang qua một kinh nghiệm tôn giáo kéo dài mười hay mười hai thế kỷ. Chính nơi đây mà ta phải áp dụng quan niệm truyền thống tiến triển mới mong hiểu được nghĩa của thánh sử.

- Rồi đến những sưu tập luật lệ về sinh hoạt công cộng của Israel và về lễ bái tế tự. Các luật này đã lần hồi xuất hiện, từ thời Môsê (lối -1225) cho đến thời Ðền thờ tái lập sau Lưu đày (từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 4).

- Những bài diễn từ hay giảng thuyết khuyên nhủ dân nắm giữ luật lệ và nói lên hậu quả thưởng phạt tùy theo thái độ của Dân đối với Giao ước.

Trình thuật và lịch sử

Mười một chương đầu của sách Khởi nguyên nên được để riêng. Qua việc tả lại nguồn gốc loài người, với một lối hành văn đơn giản và nhiều hình ảnh hợp với tâm não của một dân chưa được mở mang mấy, các chương này đưa ra những chân lý căn bản của kế đồ Cứu chuộc: Thiên Chúa tạo dựng vào buổi đầu thời gian, việc can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa trong sự xuất hiện của con người, nam và nữ, tính cách thống nhất của loài người, tội của tổ tiên tiên khởi, sự sa ngã và những khổ đau, coi như một hình phạt, được lưu truyền.

Các chân lý này đồng thời cũng là các sự kiện, và nếu các chân lý này là những chân lý chắc chắn thì các sự kiện cũng phải là những sự kiện thực mặc dù chúng ta không thể định rõ qua cái lớp áo thần thoại đã được mặc cho các sự kiện ấy, phù hợp với tâm não của thời đại và môi trường.

Lịch sử các tổ phụ là một câu truyện gia đình: Ðó là một chuỗi những ký ức người ta còn giữ được về các tổ tiên Abraham, Ysaac, Yacob và Yuse. Một câu truyện bình dân, chú trọng nhiều vào những giai thoại về cá nhân và không hề có ý muốn cột các trình thuật này vào lịch sử chung. Cuối cùng, đây là một câu truyện tôn giáo: Mọi khúc rẽ có tính cách quyết định đều được ghi dấu bởi sự can thiệp của Thiên Chúa và tất cả đều có tính cách quan phòng. Các sự kiện được đưa vào, được cắt nghĩa và được sắp xếp để minh hoạ cho một luận đề tôn giáo: Có một Thiên Chúa đã thành lập một dân và đã ban cho dân ấy một xứ sở. Thiên Chúa ấy là Yavê, dân ấy là Israel và xứ ấy là Ðất Thánh. Nhưng các trình thuật này có tính cách lịch sử theo nghĩa, chúng thuật lại những biến cố thật, chúng đưa ra một hình ảnh trung thực về nguồn gốc và các cuộc di dân của tổ tiên Israel về các liên lạc địa dư và chủng tộc của họ và về thái độ luân lý và tôn giáo của họ.

Sau một khoảng trống dài, sách Xuất hành và sách Dân số mô tả lại các biến cố từ lúc Môsê sinh ra tới lúc ông từ trần: Việc ra khỏi đất Aicập, dừng lại ở Sinai, tiến đến Cađes, hành trình ngang qua Yorđan và lập cư ở cánh đồng Moab. Nếu chối bỏ sự thật lịch sử của các sự kiện này và con người Môsê, thì không làm sao có thể hiểu được phần kế tiếp của lịch sử Israel, sự trung tín của Israel đối với đạo Yavê và sự gắn bó của Israel với Lề luật. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng tầm quan trọng của các ký ức này đối với sinh hoạt của dân và ảnh hưởng của chúng trong các nghi lễ đã mặc cho các trình thuật cái màu sắc của một anh hùng ca (như việc ngang qua Biển Ðỏ) và đôi khi, của một phụng vụ (như Lễ Vượt qua). Israel, trở thành một dân, đã đi vào lịch sử chung. Vai trò của sử gia hiện đại là so chiếu những dữ kiện này của Kinh Thánh với những sự kiện của lịch sử chung.

Ý nghĩa tôn giáo

Tôn giáo của Cựu Ước cũng như của Tân Ước là một tôn giáo lịch sử. Tôn giáo ấy đặt nền tảng trên sự mạc khải Thiên Chúa đã ban cho những con người nhất định, trong những nơi và hoàn cảnh nhất định và trên những sự can thiệp của Thiên Chúa trong những thời kỳ nhất định của sự biến hóa của nhân loại. Ngũ Kinh, ghi lại lịch sử của những liên lạc ấy giữa Thiên Chúa với trần gian, là nền tảng của tôn giáo Dothái và nó đã trở thành Lề luật của tôn giáo ấy.

Người Dothái tìm thấy ở đó câu trả lời cho những câu hỏi về vận mệnh của mình. Ngay ở đoạn đầu của sách Khởi nguyên, không những chỉ có câu trả lời cho những câu hỏi mà mọi người đặt ra về thế giới, về sự sống, về đau khổ, chết chóc, nhưng còn thấy chứa đựng câu trả lời cho vấn nạn riêng của người Dothái: Tại sao Ðấng Yavê duy nhất lại là Thiên Chúa của Israel, tại sao Israel lại là dân của Người trong số các dân tộc trên thế giới? Chính là bởi Israel đã lãnh nhận lời hứa. Ngũ kinh là sách của những lời hứa: Hứa sự cứu rỗi cho Ađam và Eva sau khi họ sa ngã, bảo đảm một trật tự mới của thế giới cho Noê sau Hồng thuỷ và nhất là lời hứa với Abraham. Lời hứa ấy đã được lặp lại cho Ysaac và Yacob và bao gồm toàn thể dân xuất phát từ họ. Lời hứa ấy nhắm trực tiếp vào việc chiếm hữu xứ mà các tổ phụ đã sống: Ðất Hứa; nhưng cũng diễn tả những liên lạc đặc biệt và duy nhất giữa Israel và Thiên Chúa của cha ông.

Yavê đã kêu gọi Abraham và việc kêu gọi này đã hàm ẩn việc tuyển chọn Israel. Chính Yavê đã làm cho Israel thành một dân của Người bởi một sự lựa chọn nhưng không, bởi một ý định của tình thương được phác họa từ ngày tạo dựng và các kế đồ của tình thương đó được thực hiện liên tục ngang qua cả những bất trung, thất tín của con người.

Lời hứa và sự tuyển chọn này được bảo đảm bởi một giao ước. Ngũ kinh cũng là sách của những giao ước: Giao ước với Ađam, với Noê, với Abraham và cuối cùng với toàn thể dân ngang qua Môsê. Ðây không phải là một giao kèo giữa hai bên, vì Thiên Chúa không cần đến giao ước đó và mặt khác là chính Người đã đi bước đầu; tuy nhiên Người đã dấn thân vào và có thể nói, đã tự cột mình vào những lời hứa. Ngược lại Người cũng đòi hỏi dân của Người phải trung tín: Sự từ khước của Israel - tội của Israel - có thể cắt đứt cái liên lạc được tạo nên bởi tình thương của Thiên Chúa.

Ðiều kiện của sự trung tín này do chính Thiên Chúa ấn định. Thiên Chúa ban cho dân Người đã chọn một lề luật, lề luật này cho dân thấy bổn phận của mình, cách đối xử phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa và trong khi duy trì giao ước, chuẩn bị cho việc thực hiện các lời hứa.

Các đề tài về lời hứa, tuyển chọn, giao ước, lề luật là những sợi chỉ vàng đan chéo nhau trong Ngũ kinh và chạy suốt trong Cựu Ước. Bởi vì Ngũ kinh tự nó chưa được toàn vẹn: Nó nói lên lời hứa nhưng chưa thực hiện bởi vì Ngũ kinh chấm dứt trước khi vào Ðất Hứa. Nó phải được bỏ ngỏ nhưng một sự cậy trông tin tưởng và như một sự thúc bách, tin tưởng trong những lời hứa mà việc chinh phục đất Canaan có vẻ đã làm trọn (Yôs 23) nhưng tội lỗi đã làm cản trở và những kẻ đi lưu đày sẽ nhớ lại ở Babylon; sự thúc bách của một lề luật, lề luật ấy lưu truyền trong Israel như một người chứng tố cáo (Thứ luật 31 26).

Ðiều đó kéo dài cho tới Ðức Kitô. Ðức Kitô đã ký kết một giao ước mới và đưa vào giao ước ấy các Kitô-hữu, những người thừa tự của Abaham bởi lòng tin. Lề luật đã được ban ra để duy trì các lời hứa như một thầy dạy dẫn tới Ðức Kitô, sự thực hiện các lời hứa và do đó, trong Ðức Kitô, người Kitô-hữu không còn dưới quyền thầy dạy, người Kitô-hữu đã được giải phóng khỏi lề luật. Nhưng điều ấy không có nghĩa là người Kitô-hữu không còn nằm trong giáo huấn luân lý và tôn giáo của lề luật nữa. Bởi Ðức Kitô đã đến không phải để hủy bỏ mà là để làm trọn (Mt 5 17). Tân Ước không đối nghịch với Cựu Ước mà là nối tiếp. Hội Thánh không những đã nhìn thấy trong những biến cố lớn của thời các tổ phụ và thời Môsê, trong những ngày lễ và các nghi lễ tại sa mạc, những sự thực của luật mới (sự hy sinh của Ðức Kitô, phép rửa, cuộc vượt qua của Kitô-hữu) nhưng lòng tin Kitô-giáo còn đòi hỏi cũng một thái độ căn bản mà các trình thuật và giáo huấn của Ngũ kinh đòi hỏi nơi người Dothái. Người Kitô-hữu có thể đọc Ngũ kinh theo thứ tự sau: Khởi nguyên, sau khi đối chọi những bất trung của con người tội lỗi với lòng nhân lành của Thiên Chúa tạo dựng đã cho thấy trong các tổ phụ phần thưởng được ban cho lòng tin. Sách Xuất hành là nét phác họa cuộc cứu chuộc chúng ta. Sách Dân số nói lên thời thử thách, trong đó Thiên Chúa vừa giáo dục, vừa sửa trị con cái của Người, chuẩn bị cho việc thu họp những kẻ được tuyển lựa. Sách Lêvi sẽ được đọc với nhiều lợi ích hơn khi nối liền với những chương cuối của tiên tri Êzêkiel hoặc sau các sách Ezra hay Nêhêmya. Việc đọc sách Thứ luật sẽ đi đôi với việc đọc sách của tiên tri Yêrêmya, một tiên tri gần gũi nhất cả về thời gian lẫn tinh thần.

* * *
Nguồn: Vietnamese Missionaries in Asia http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible2/ngukinh.htm
 

Tiểu Dẫn vào Cựu Ước

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
Old Testament
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


TIỂU DẪN VÀO CỰU ƯỚC

QUY ÐIỂN


Trong Israel, rồi trong Hội thánh thời các tông đồ, có những thư tịch đã được sưu tập lại thành một Quy điển, tức là những văn thư được lấy làm qui luật cho đức tin và đời sống, bởi đã giữ lại lời mạc khải của Thiên Chúa:

Ðó là những sách được gọi là:
CỰU ƯỚC: Nghĩa là những sách thuộc giao ước cũ.
TÂN ƯỚC: Nghĩa là những sách thuộc giao ước mới. (xem phần tiểu dẫn vào Tân Ước).

Nhưng về Cựu Ước chúng ta phải nói đến hai quy điển:
Quy điển Hipri (các sách viết bằng tiếng Hipri).
Quy điển Hilạp (các sách hoặc dịch, hoặc viết bằng tiếng Hilạp).

1- CỰU ƯỚC THEO TIẾNG HIPRI

Văn kiện thứ nhất cho chúng ta một số lược kê các sách bằng tiếng Hipri là Lời tựa của sách Huấn ca, do tay dịch giả (viết vào năm -132 trước kỷ nguyên): "Lề luật, các tiên tri và các thư truớc khác kế theo, đã chuyển lại cho ta biết bao điều lớn lao". Kiểu kê Sách thánh như vậy vẫn còn hiện hành giữa người Dothái. Và Tân Ước cũng dùng một kiểu kê sổ như thế (Lc 24 44, nhưng thay vì "các thư trước khác" thì nói đến sách tiêu biểu là Thánh vịnh).

- Lề Luật hay Ngũ Kinh
Kinh Khởi nguyên (Kn) (Genesis)
Kinh Xuất hành (Xh) (Exodus)
Kinh Lêvi (Lv) (Leviticus)
Kinh Dân số (Ds) (Numeri)
Kinh Thứ luật (Tl) (Deuteronomium)

- Các tiên tri
Tiên tri trong Quy điển tiếng Hipri có nghĩa rộng và được chia ra:

- Các tiên tri tiền
gồm có:

Sách Yôsua (Yôs) nói đến việc Israel chiếm Ðất Hứa dưới quyền lãnh đạo của Yôsua.

Sách Thẩm phán (Thp) (Judices), nói đến thời Israel ở Canaan, từ Yôsua cho đến khi lập vương quyền.

Hai sách Samuel (1-2S) (Samuel) nói đến vai trò của Samuel khi lập vương quyền, và truyện Saul và Ðavít.

Hai sách Các Vua (1-2V) (Reges), thuật lại chuyện Salômon, truyện các vua dòng họ Ðavít ở Yuđa, và các vua ở Israel (tiếng này giới hạn trong nước phía Bắc gồm 10 chi tộc).

Trong loạt sách này, loại văn lịch sử càng ngày càng đúng nghĩa hơn. Sách Các Vua đuợc tổ chức theo trình tự niên biểu, và đối chiếu nhân vật và biến cố của hai nước Yuđa và Israel.

Rồi đến những nhân vật mà ta thường dành cho biệt hiệu Tiên tri. Còn người Dothái lại gọi là:

- Các tiên tri hậu

Ysaya (Ys), Yêrêmya (Yr), Êzêkiel (Ez).

12 tiên tri nhỏ
: Hôsê (Hs), Yôel (Yô), Amos (Am), Abđya (Ab), Yôna (Yôn), Mica (Mi), Nahum (Na), Habacuc (Ha), Sôphônya (So), Haggai (Hag), Zacarya (Za), Malaki (Ma).

Loại sách này cựu trào, phần nhiều đã dựa trên những ký ức đồng thời của nhân vật chính, nhưng nhiều khi phải nhận là có tay người thời sau soạn thêm hay nhuận chính. Có những sưu tập sấm ngôn còn bỏ ngỏ mãi lâu sau thời các tiên tri.

Loại sách Tiên tri tiền và hậu đối với đạo Dothái cũng có tính cách Quy điển, làm qui luật cho đạo, nhưng không cốt thiết bằng Torah (Ngũ kinh). Vào thời Chúa Yêsu, những nhóm như bè Sađốc và người Samari vẫn không công nhận các sách ấy làm qui luật cho đạo Yavê. Còn Tân Ước lại rất năng nói đến: "Lề luật và tiên tri" (Mt 5 12 11 13 Lc 16 16 Yn 1 45 Cv 13 15...) và nhận là có uy tín như nhau.

- Các thư trước


Loại sách này muộn thời hơn và phức tạp hơn Kinh thánh bằng tiếng Hipri kê thứ tự như sau:

Thánh Vịnh (Tv) (Psalmi), những bản kinh hát ở Ðền thờ.

Yob (Yb), suy về phúc họa và lành dữ.

Cách ngôn (Cn) (Proverbia), những châm ngôn của các hiền nhân Israel.

Rut, một truyện đạo đức (lòng hiếu thảo của Rut, một nàng dâu) đã làm cho nàng trở nên bà tổ của hoàng tộc Yuđa. (Truyện này thường được đặt sau sách Thẩm phán theo Kinh thánh Hipri).

Diệu ca (Dc) (Cantica canticorum), những bài thơ tình được chuyển nghĩa để hát lên nỗi hân hoan của Israel và Thiên Chúa Israel thờ đã được tái ngộ.

Giảng viên, hay Qohelet (Gv): Suy tư trên sự đời.

Aicao (Ai) (Lamentationes) (thường sắp sau sách Yêrêmya, theo Kinh thánh Hilạp).

Esther (Eth), truyện điển hình về việc Israel thoát nạn.

Ðaniel (Ðn), có những đề tài này: Suy tư về lịch sử, khích lệ những người phải chịu khổ vì đạo Dothái năm 165 trước kỷ nguyên, lời tiên tri về Nước Thiên Chúa đến.

(Kinh thánh Hipri đặt Ðaniel vào loạt "Thư trước, vì xuất hiện muộn. Còn Kinh thánh Hilạp đặt Ðaniel vào loạt các Tiên tri vì nội dung. Quả thật sách này có giáo huấn quan trọng về Mêsia (Con Người) và về sự kẻ chết sống lại).

Ezra và Nêhêmya
(Er, Nê), bản điều trần của hai nhà cải cách đạo Dothái vào thế kỷ thứ 5 về sứ vụ của họ, cùng những hồ sơ liên hệ.

Sách Ký sự (1-2 Ks) (Paralipomena), toát lược lịch sử từ khởi thủy nhân loại cho đến cuối thời Các Vua. (Kỳ thủy, ba sách Ký sự, Ezra và Nêhêmya là một toàn thư duy nhất, có lẽ do cùng một soạn giả).

Loạt sách này lâu ngày không được xác định minh bạch. Lối năm 90 sau Kỷ nguyên, Hội đồng Dothái tại Jamnia, gồm những luật sĩ Biệt phái, có thái độ chống đối với bè Essêni và Kitô-giáo, đã ấn định Quy điển Hipri: Một sổ công khai gồm có 24 sách (hay 22 nếu liệt sách Rut chung với sách Thẩm phán, và Ai ca với sách Yêrêmya).

2- CỰU ƯỚC THEO TIẾNG HILẠP

Từ thế kỷ thứ 3 trước Kỷ nguyên đã có một bang Do-kiều đông đảo ở Alexanđria (Alexanđrô đại đế đã thành lập thành này, năm -331). Do-kiều ở đây chuyển qua tiếng Hilạp tức là tiếng của các vua Ptôlêmê đã chiếm đóng toàn cõi Aicập từ Alexanđrô trở đi. Và như thế chẳng bao lâu phải cần đến một bản dịch Kinh thánh. Cùng những sách có trong Quy điển Hipri, người Dothái ở đây đã đem theo ít sách khác, và tạo nên một Quy điển mới mệnh danh là Bản Bảy Mươi (một tương truyền cho rằng chính vua Ptôlêmê II (-285-246) đã mời 70 (hay 72) cụ rabbi chuyển Torah qua tiếng Hilạp). Kitô-giáo lan rộng trong thế giới Hilạp đã nhận bản dịch này. Và từ cuối thế kỷ thứ I bản Bảy Mươi chỉ còn lưu tồn trong Kitô-giáo.

Ta gặp thấy sổ ghi đầy đủ những sách này trong Hội thánh Latinh trước hết. Sổ cựu trào nhất lên đến thế kỷ thứ 3, và sổ có tính cách công khai đã được thiết lập trong Công đồng thành Hippona, ở Phi châu năm 393. Sổ này người ta còn gặp thấy trong các thư tịch của các Ðức Giáo Hoàng Innocentê I (401-417) và Gelasius (492-496).

Kinh thánh Hilạp gồm có tất cả Kinh thánh Hipri. Ngoài ra còn thêm những sách này trong loại "thư trước":
- 2 truyện đạo đức: Tobya (Tb); Yuđita (Yđt)
- 2 sách lịch sử: I-II Macabê (1-2 M)
- 2 sách Khôn ngoan: Sách Khôn ngoan (của Salômon) (Kng); Huấn ca (Hc)
- Một sách soạn theo tinh thần Yêrêmya và gán cho thơ ký của Yêrêmya là: Baruk,
- những bổ túc cho các sách Esther và Ðaniel.

Ngoài ra các thủ bản và sổ xưa để lại còn kèm theo những sách khác nữa (như sách Hênóc). Những sách này sau đã bị loại ra. Như thế, ta thấy được là giới hạn Kinh thánh Hilạp có một thời còn bất định.

Các sách Kinh thánh Hilạp không có trong Kinh thánh Hipri, được gọi là Quy điển thứ. Nhưng ngoại trừ những phần bổ túc của sách Esther, Baruk 4 5-5 9, và sách Khôn ngoan, thì tất cả các sách Quy điển thứ khác đều có nguyên văn Hipri hay Aram. Sách thứ 2 Macabê chỉ là một bản toát yếu, thích nghi sách của Yasôn người Kyrênê (2M 2 19-30) ra tiếng Hilạp. Thỉnh thoảng người ta còn tìm ra được những di tích của nguyên văn, hoặc trong các văn kiện Qumran (Tôbya, Huấn ca) hay là Masađa (Huấn ca), hoặc ở Ghêniza tại Cairô (Huấn ca).

Trong Hội thánh cũng có một thời nảy ra khuynh hướng muốn hạn chế Quy điển vào Kinh thánh Hipri. Thánh Hiêrônymô chuộng "veritas hebraica" (sự xác thực nơi bản Hipri) cũng đồng ý như thế trong công việc nghiên cứu khoa học của ngài. Khuynh hướng này đã giúp loại ra khỏi Quy điển những sách mạo nhập muộn thời, hay những quyển trùng với những sách đã có trong Quy điển, hay là giá trị chẳng có bao nhiêu. Tuy vậy, không phải tất cả Hội thánh đều đã chấp nhận khuynh hướng này. Hội thánh vẫn giữ Quy điển Hilạp. Và ngay cả thánh Hiêrônymô cũng dịch những sách không có trong Kinh thánh bằng tiếng Hipri. Nhân lúc dịch sách Tôbya, ngài nói: "Tôi đành lòng không đồng ý với Biệt phái để phục vụ các Giám mục".

Bởi truyền thống Hội thánh xưa, kế thừa cách xử sự của các thánh Tông đồ, đã tìm trong bản Bảy Mươi kiểu diễn đạt thần học căn bản, y nhận trong đó có sự tiến triển về đạo lý so với nguyên văn Hipri, và dùng tất cả các sách Kinh thánh Hilạp, coi như văn bản được thần hứng, có giá trị làm qui luật về mạc khải, nên hiện nay nhiều tác giả nhận bản dịch Bảy Mươi cũng là sách được thần hứng, tuy Hội thánh chưa tuyên bố công khai và nhiều người khác vẫn còn coi như một vấn đề tranh luận.

NHÃN GIỚI LỊCH SỬ
 
Niên biểu các sách Cựu Ước


Sau đây là niên biểu các sách Cựu Ước, một niên biểu mà bình luận về Kinh thánh ngày nay thường nhận, sắp theo các thế kỷ trước Công nguyên:
XIII Xuất hành khỏi Aicập
XII Ðịnh cư ở Phalệtin
XI Chinh chiến với các dân Canaan
Thành lập quân chủ. (Ðavit: -1000)
(Truyền khẩu (luật lệ, truyền kỳ, thi ca) còn lưu lại trong các sách thời sau).
X Ký sự của triều vua (sau đã sát nhập vào các sách)
IX Luật lệ và truyền tụng xưa được san định thành những sưu tập: Sưu tập của Yuđa (Yavít), và sưu tập của Israel (Elohit), sau này đã được sát nhập vào Ngũ kinh.
VIII Amos, Hôsê, Mica, Ysaya (Samari thất thủ -721)
VII Cải cách tôn giáo của Yôsya (-621)
Kinh Thứ luật, Yêrêmya, Sôphônya Nahum.
VI Habacuc. (Yêrusalem thất thủ -587)
San định các sách: Thẩm phán, Samuel, Các Vua.
Êzêkiel, Ysaya-Thứ, Haggai, Zacarya.
V Luật lệ và sử quan tư tế (Văn kiện P) soạn thảo các truyền thống có trước.
Yôel. Malaki. Abđya? Yob? Cách ngôn? Diệu ca? Rut? Nhiều Thánh vịnh.
IV Nhuận chính Ngũ kinh (Y.E.P. và Thứ luật).
III Ký sự. Ezra-Nêhêmya. Zacarya 9-14.
Yôna. Tôbya. Giảng viên (Qohelet). Esther. Bản dịch LXX.
II Huấn ca. Ðaniel. 1-2 Macabê. (Ngụy thư: Hênóc)
I Khôn ngoan.

Thoáng coi qua niên biểu, ta thấy là không có sách Cựu Ước nào theo hình thức cuối cùng còn lưu lại trong Quy điển mà lại có trước thế kỷ 9 trước Kỷ nguyên. Trước đó, đã có những truyền thống khẩu truyền và những biên niên ký cùng những hồ sơ. Nếu có lưu lại được là nhờ các tác giả thời sau thâu lượm. Còn các sách Cựu Ước trong Quy điển đều được viết từ thời các tiên tri lớn về sau, tức là từ giữa thế kỷ thứ 8, với Amos, Hôsê, Mica, Ysaya. Vậy chính sự nghiệp của các tiên tri ấy đã định đoạt, trực tiếp hay gián tiếp, cho tính cách của Quy điển Kinh thánh. Họ đã in dấu của họ, cách này hay cách khác trên toàn bộ Kinh thánh Cựu Ước.

Một phần lớn những tài liệu có trước các tiên tri đã do từ những thời xa xưa để lại. Giá trị của các truyền tụng ấy cho ta thấy cái tính cách thực là nhân loại của thánh sử. Lịch sự mạc khải không căn cứ trên một nhân loại lý tưởng, Nhưng trên những tình cảm, những phản ứng nhân loại cơ bản, có khi man rợ là đàng khác, những điều mà sinh hoạt thời nay, dẫu có phiền phức và văn minh mấy, vẫn còn bị chi phối. Bởi tính cách nhân loại muôn thuở, và nền móng ấy mà những truyện xưa của Kinh thánh vẫn còn hấp dẫn. Ðó là nói về các tài liệu sử dụng. Chứ các sách trong đó truyền tụng còn lưu lại đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của các tiên tri. Những truyện ấy nếu có được ý nghĩa cho tôn giáo, thì đều do giáo huấn của các tiên tri hướng đạo mà có.

Lược sử thời các tiên tri

Vì vai trò của các tiên tri quan trọng như thế đối với mạc khải Cựu Ước, nên chúng ta khởi sự với các tiên tri, những vị đã giảng giải và trước thuật trong vòng hai thế kỷ đi từ giữa thế kỷ thứ 8 đến giữa thế kỷ thứ 6, sớm muộn hơn vài chục năm.

Vào giữa thế kỷ thứ 8, dân của Cựu Ước chia làm hai tiểu quốc, chủng tộc và ngôn ngữ tương đồng, chiếm khoảng giữa giải đất ngày nay gọi là Phalệtin: Nước phía Nam là Yuđa, có kinh đô là Yêrusalem. Nước phía Bắc được gọi là Israel (cũng gọi là Ephraim) có kinh đô là Samari. Hai nước nhỏ bé, rất bé mà lại bị cái số phận làm trái độn cho hai cường quốc thời bấy giờ là Assur và Aicập. Chính việc tranh hùng của hai cường quốc này đã làm bối cảnh cho tất cả bao thảm kịch mà hai nước Israel và Yuđa phải hứng chịu.

Vào giữa thế kỷ thứ 8, tình thế Phalệtin nói được là khả quan. Dân chúng còn được an cư lạc nghiệp. Nước Israel phía Bắc, lúc bấy giờ, dưới triều vua Yơrôbôam II, được hưởng một thời thịnh vượng xa hoa hiếm có, nhờ vào ưu thế binh bị và giao dịch thương mại. Nước nhà tạm gọi được là phú cường và văn kiến. Nhưng giàu sang thì lại thường sinh ra: Lủng củng và chênh lệch bên trong, điều này sẽ dẫn tới cảnh cốt nhục tương tàn, và quốc gia đến ngày khánh tận. Ðàng khác mối đe dọa từ Lưỡng-hà-địa đã ngày một nên cấp bách "Long xà vĩ đại" (một kiểu tự xưng của vua Assur) đã thanh toán tất cả những cản ngăn xung quanh, và sắp thực hiện dự định bá chủ thiên hạ. Khi chính quyền Israel cảm thấy mối đe dọa, thì như thường tình, họ tìm cách chấn án, lật đật vá víu bằng liên minh, rồi tổ chức kháng cự một cách tuyệt vọng, để rồi bị chà đạp. Israel mất dần đất đai, rồi kinh thành thất thủ và bị phá bình địa, một phần lớn dân chúng bị phát lưu và dân tứ chiếng khác đến chiếm cứ đất đai, theo chính sách đô hộ di dân phòng loạn của Assur. Thế là Israel khánh tận.

Cuộc xâm lăng tràn qua cả nước Yuđa. Sennakêrib cho lịnh phong tỏa Yêrusalem, sau khi đã hạ 46 thành của Yuđa và như Sennakêrib thuật trên bia của ông "Êzêkya, người Yuđa, ta đã nhốt nó lại như chim trong lồng". Êzêkya đã phải nộp cống hiến nặng nề và bị xén đất đai. Nhưng trong một lần viễn chinh khác, Sennakêrib cũng đã cho quân bủa vây Yêrusalem. Lần này tình cảnh nguy kịch hơn trước. Vì một khi nước nào đã hàng mà lại dấy loạn, thì Assur không bao giờ dung thứ. Mọi sự hầu như tuyệt vọng. Thì chính bấy giờ một điều bất ngờ xảy đến. Nhất đán binh đội Assur cuốn gói về nước! Tại sao? Sách thánh dùng hình ảnh thông thường là thần sứ Yavê đến tru diệt địch thù Israel. Theo sử địa Hilạp là Hêrôđôt, thì chuột đã ra gặm bao tên dây nỏ của những binh bắn cung của Assur. Ôn dịch? Các sử gia ra ức thuyết. Xét đến tình hình Assur theo văn kiện, thì có lẽ Assur gần có giặc nội. Dù sao, Yuđa cũng bị một trận hú hồn.

Sau một thời gian tao loạn, thì đến thời Yôsya. Một vua lên ngôi khi mới tám tuổi! Khi trưởng thành Yôsya tỏ ra là một ông vua minh mẫn, mạnh bạo. Quyền bính của ông được củng cố, và ông muốn thực hiện cái hoài bão của cả dân là thống nhất tất cả Israel mười hai họ. Trước hết ông đứng đầu một cuộc cải cách sâu rộng về tôn giáo, tập trung tế tự nơi Ðền thờ duy nhất Yêrusalem. Nhưng thực ra, một nước bé nhỏ như Yuđa làm sao có thể đứng một mình, không bị lôi kéo vào chính cuộc giữa những nước lớn mạnh cạnh tranh nhau thời ấy. Và Yôsya đã dũng cảm một cách nói được là dại dột, đem binh ra hãm chân đạo binh Aicập, và bị tử thương, để lại một nước làm chư hầu cho Aicập.

Assur khánh tận. Nhưng lại một nước Lưỡng-hà-địa đã lâu năm lăm le thay chỗ rồi: Babylon với Nabukôđônôsor. Vua này là một vua có tài năng, sáng suốt, có tài thao lược, ưa kiến trúc. Cho mình như người kế thừa đế quốc Assur, ông lanh tay đoạt lại đất đai của Assur và không đầy 5 năm sau, Yuđa bị giựt khỏi tay Aicập, để làm chư hầu cho Babylon. Con và cháu của Yôsya đều bất tài (Yôakhaz, Yôyayim, Yôyakin, Sêđêqya): Chính trị lẩn quẩn khi xiêu qua phía Aicập, khi hàng Babylon, trong nước năm bè bảy mối. Những ngày tàn của triều đại Ðavit đã đến, Sêđêqya nhu nhược bỏ kinh đô chạy trốn, trong khi thành bị vây và bị đói, nhưng đã rơi vào tay quân địch. Yêrusalem bị hạ, Ðền thờ bị phá, thành lũy đều bị triệt hạ, và những hạng khá giả trong dân đều bị bắt đi đày. Trong xứ, chỉ còn lại đám dân quê dốt nát, nghèo khó. Những người này cố sống qua ngày trên giải đất bị tàn phá gớm ghê. Nước Yuđa cũng đã khánh tận.

Về những người bị bắt đi đày. Thực sự nhóm người bị đày không bị hành hạ lắm. Babylon đã có văn minh, lại quen nghề giao thương. Những người thông minh và cần cù như người Dothái chẳng bao lâu cũng lập được một sinh hoạt bình thường, bề thế là đàng khác. Vào một hoàn cảnh như thế, sự đồng hóa là lẽ tất nhiên. Những người thuộc các nước xung quanh Israel chẳng bao lâu đã hòa lẫn với nhau làm dân đế quốc. Nhưng người Dothái đã không bị đồng hóa. Ngay sau khi vong quốc, một nhóm người ái quốc, nhưng nhất là sùng tín đã ra tay chuẩn bị cuộc phục hưng. Dẫu tương lai không có gì sáng sủa, họ đã tin dân họ còn một viễn tượng, họ đã kiên trì trong nỗ lực.

Nửa thế kỷ sau, Babylon bị Batư thôn tính. Kyrô cầm vận mạng thiên hạ. Chính sách Batư cởi mở về tôn giáo: Mọi dân bị phát lưu đều được phép hồi hương và giữ đạo tổ tiên của mình. Người Dothái cũng được hưởng phép ấy. Một nhóm người Dothái đã lên đường về nước, rồi dần dà nhiều nhóm khác theo sau: Trong vòng một thế kỷ rưỡi. Ðiều ấy cho ta thấy, hồi hương cũng đã là mối e ngại cho nhiều người. Và thực, tình cảnh của người hồi hương chẳng có gì là khích lệ. Nhưng cộng đoàn Dothái hồi hương đã kiện cường kiến tạo trên cảnh thê lương một chế độ, nói được là một chế độ thần quyền, nhờ đó dân Dothái giữ vững và phát triển thêm những truyền thống của dân tộc họ, dưới quyền đô hộ khá nhân đạo của Ðế quốc Batư.

Các tiên tri trong thời này

Trình tự lịch sử trong vòng hai thế kỷ 8 đến 6 toát yếu là thế. Một lịch sử có căn cứ trên văn kiện bên trong Israel cũng như bên ngoài (các văn kiện Assur và Babylon). Lịch sử ấy không có gì là đặc biệt. Nhiều nước nho xung quanh cũng suy tàn tương tự như vậy. Ðối với chúng ta, tự nó lịch sử ấy cũng không có gì quan trọng bắt phải để ý, nếu không có một cái gì đặc biệt cùng diễn ra một trật với và nhân với biến cố bên ngoài. Chúng ta lại sẽ duyệt qua thời này mà chiêm nghiệm các sự kiện như thể trong hồn của chúng, nhờ các thư tịch tiên tri đồng thời, tức là như những bình luận thời cuộc theo một phương diện độc đáo. Các biến cố xảy ra tự nó cũng chỉ là những sự việc hiện đang xảy ra mà chúng ta nghe phát thanh hay đăng tải trên báo chí. Nhưng đối với các tiên tri, lịch sử có cái gì hơn là những sự kiện kế tiếp theo nhau, một cái gì như cái hướng, cái ý nghĩa. Ðiều chúng ta có thể so sánh như kinh nghiệm các nhà khảo cổ hiện cho thấy: Dưới bước chân đi, có mô đất nhợt nhạt, có lùm cây, khi xanh tươi, khi vàng úa, nhưng chụp bóng từ trên phi cơ xuống nhiều khi nhận ra được cả một làng mạc cổ thời còn lộ mờ mờ. Tiên tri ở một nhãn giới xa đã đọc thấy một hướng, cái hướng ấy là điều rất quan trọng, vì ích gì cho chúng ta, việc Sêđêqya bỏ kinh thành chạy trốn, hay việc Gôđôlya bị một nhóm cuồng tín giết hại.

Amos

Tiên tri chúng ta gặp trước tiên trong thời này là Amos, một người chăn cừu trong vùng sa mạc Yuđa (ở Têqoa), một miền nghèo khó và quê mùa. Ông lên Nước Israel phía Bắc ngay vào thời cực thịnh nước ấy, dưới triều Yơrôbôam II. Ông nhìn thấy những hậu quả của giàu sang và cảnh xa hoa đang tiến. Nhưng ngang qua cái vẻ hào nhoáng ấy, ông nhận ra căn bịnh suy đồi của xã hội. Xã hội Israel đã ra thối nát vì khoái cảm, vì những bất công và áp bức trên hạng lê dân nghèo khó. Ðối với lòng tin vào Giao Ước của ông, đó là một sự lăng nhục đến chính Thiên Chúa. Ðạo quốc gia bề ngoài được ưu đãi, và nguồn lợi tức dồi dào. Trên có nhà vua bảo vệ, dưới thì có hạng giàu có, những mệnh phụ Samari, vực đỡ. Lễ nghi rất mực trang trọng, phụng vụ cử hành oai nghiêm. Người Israel trung lưu bình thường có thể cảm thấy hãnh diện vì đặc ân thuộc về một dân tộc sùng tín, và như vậy thịnh vượng kinh tế kia được họ coi là phần thưởng đích đáng cho lòng đạo đức. Nhưng Amos lại phán đoán theo những tiêu chuẩn khác. Những phê phán minh bạch và cứng cáp của ông trên sự trạng, chiếu theo một quan niệm cao siêu về tôn giáo, cho thấy vai trò siêu bạt của ông trong lịch sử mạc khải.

Trước hết Amos cùng chung với đại đa số đồng bào của ông về những xác tín căn bản truyền thống tôn giáo đã chuyển lại. Ông tin về liên lạc mật thiết đã có giữa Thiên Chúa và Israel: Ðó là Giao ước, kết lại trong châm ngôn: Israel là dân của Yavê, và Yavê là Thần của Israel. Amos tin Thiên Chúa của Israel là một "Thần sống", hoạt động một cách quyền năng trên lịch sử. Ông cầm chắc rằng, không chóng thì chầy, quyền năng phép tắc của Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra trong một biến cố lịch sử kinh hoàng. Vào Ngài của Yavê, Thiên Chúa của Israel sẽ thi thố uy quyền của Người trên mọi dân thiên hạ.

Những điều Amos tin đó, Amos nắm giữ như căn bản chung với mọi người Israel. Nhưng những điều tin ấy không ru ngủ ông để ỷ thị vào cái mã bên ngoài. Thiên Chúa yêu mến Israel, dĩ nhiên rồi. Nhưng Người còn chuộng sự chính trực hơn. Người không lo đến quyền lợi của dân Người, cho bằng sự thiện muôn thuở. Israel mà rẻ rúng sự thiện, thì án Thiên Chúa sẽ đến trên họ.

Trong loạt sấm ngôn mở đầu (Amos 1 3 2 16), Amos hạch tội các dân láng giềng. Dân Aram sẽ bị phạt vì đã dã man giết người. Dân Philitin, dân Phênikia mắc tội bán người là nô lệ cho Eđom, vì chém giết một dân anh em. Dân Ammôn, vì muốn khuếch trương bờ cõi mà gieo chiến tranh tàn khốc, giết cả đàn bà trẻ con. Dân Moab, vì đã hành hạ dã man thây chết một vua Eđom bại trận. Một lũ phạm nhân chiến tranh đáng tội theo quả báo việc chúng làm. Nhưng tội nhân được dành cho án phạt nặng nhất, một cách bất ngờ lại là Israel (Am 2 6-7).

Như vậy, được làm dân của Thiên Chúa có nghĩa là mang một trách nhiệm đặc biệt, chứ đâu có phải là để hưởng đặc ân (coi Am 3 2).

Lễ nghi, tế tự dẫu có tăng thêm mấy đi nữa cũng không thể thay đổi được sự thật này là: Thiên Chúa hằng sống chí công quản cai vũ trụ, đâu có tội, đó có vạ, dân có tội, dân sẽ chịu lấy họa. Những kẻ coi như tín điều là Ngày của Yavê đến, Israel vì là dân của Thiên Chúa, sẽ toàn thắng mọi địch thù: những kẻ đó chỉ ôm ấp một ảo tưởng. Ðích Thiên Chúa nhắm đến trong ý định của Người không phải là cái thắng trận của Israel, nhưng là sự toàn thắng của sự thiện.

Hiện bấy giờ, mọi sự dường như xuôi thuận yên hàn. Nhưng tiên tri có linh cảm là thời thế nguy ngập. Cuộc xâm lược của Assur coi như xa xôi, nhưng chẳng bao lâu nữa cơn giông sẽ đến, và án Thiên Chúa sẽ trút xuống dân phản bội. Chỉ còn một điều có thể ngăn được đại họa là ghét sự dữ và mến điều lành, chuộng công lý (Am 5 15).

Ðó là tín thư cốt yếu của các sấm ngôn Amos, vào giữa thế kỷ thứ 8. Một quả quyết: Lịch sử được diễn ra trong một trật tự luân lý. Theo giòng lịch sử, lanh hay chậm, tương quan quả báo tội và vạ sẽ không phải là sự ngẫu nhiên, đó là phán xét của Thiên Chúa hằng sống và chí công, vì chính Người là Chúa trên lịch sử. Mạc khải sẽ còn tiến, và vì thế cái nhìn của Amos có khi còn khá giản lược. Nhưng quả quyết của ông: Lịch sử không phải do ngẫu nhiên mù quáng hướng dẫn, nhưng được đặt trên bình diện lý trí phán đoán và tự do lựa chọn và có trách nhiệm dưới sự quản cai của Thiên Chúa - quả quyết ấy rất căn bản, đó là khởi điểm cho tư tưởng tiên tri, cũng như cho sự am hiểu lịch sử và thực tế nếu không muốn hạ giá vũ trụ nhân loại xuống dưới luật dã thú rừng hoang vô tư vô hại.

Hôsê

Tiên tri thứ hai xuất hiện, hầu như đồng thời với Amos. Ông là người chính quán miền Bắc. Có lẽ ông thuộc hạng nông gia trung bình, sống giữa những người trung tín với Giao ước, mà lý tưởng là bình đẳng giữa người với người (một di sản thời du mục để lại), Hôsê không thể không lên tiếng đả kích những sự sa đọa, bóc lột trong dân, và lặp lại án phạt của Thiên Chúa trên dân phản ngụy, cũng như Amos. Nhưng ông không chỉ dừng lại ở đó. Ông được xác tín sâu xa rằng có một cái gì trong liên lạc giữa Thiên Chúa và Israel, bền vững, không gì lay chuyển được, ngay cả những thất trung của Israel, đó là "khesed" (cái tình, cái nghĩa) nơi lòng Thiên Chúa (coi Hs 11 1-9).

Thiên Chúa không thể để mặc dân của Người. Nhóm người đã từng có liên lạc với Người, dù chỉ một lần thôi, Thiên Chúa không ngơi canh phòng coi sóc. Dân có tội, dân sẽ chịu lấy hậu quả. Một hậu quả hầu như tất nhiên. Cái hậu quả ấy, nói được rằng Thiên Chúa hằng tìm cách giảm đi, dường như giơ tay cản ngăn người ta tự hủy hoại chính mình. Vì lý do nền tảng cho sự lựa chọn và dẫn đưa Israel là chính lòng mến của Thiên Chúa. Lòng Mến ấy không phải là một cảm tình tách rời được với Thiên Chúa, nhưng là chính cái bản lĩnh tuyệt đối và thánh thiện của Thiên Chúa. Yavê không thể rời bỏ lòng mến của Người, cũng như người không thể rời khỏi thần tính của Người. Do đó, Hôsê nhận thấy là tai biến đe dọa qua đi, hi vọng sẽ có giảng hòa và một đời sống mới cho Israel.

Như thế, quan niệm Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử như Amos đã rao giảng lại được đào sâu hơn về một khía cạnh nữa. Thiên Chúa là Thần lân mẫn, cũng như là Thần công lý. Chưa hẳn Hôsê đã có phương giảng hòa hai nguyên lý ấy. Nhưng từ nay, tư tưởng Cựu Ước sẽ đi qua đi về giữa hai mút cùng ấy: Thiên Chúa hằng sống hoạt động trong phán xét, và cũng Thiên Chúa ấy hoạt động trong lòng thương xót.

Ysaya

Sứ vụ của Hôsê chưa chấm dứt, thì ở miền Nam đã chỗi dậy một vì tiên tri khác còn lớn hơn nữa: Ysaya, người Yêrusalem, thuộc hạng thượng lưu, có lẽ thuộc hoàng tộc nữa. Một phần lớn đời ngài, ngài đã sát cánh với những nhân vật chính trị nơi kinh đô, ngài lịch duyệt về các vấn đề chính trị, xã hội và quốc tế thời ấy liên can đến xứ sở của ngài. Và giáo huấn tôn giáo của ngài, chính nhân các biến cố mà ngài đã diễn giải.
Cùng với những tiên tri đi trước, Ysaya nói lên quan niệm căn bản về Thiên Chúa hằng sống và công minh, chưởng trị lịch sử nhân loại, hoạt động trong phán xét và thương xót. Vào thời đầu sự nghiệp, ngài đã chứng kiến sự thực hiện các tiên cảm về phán xét: Án Thiên Chúa đã ra, nước Bắc đã khánh tận. Và rồi đây ngay xứ sở của ngài cũng sẽ chịu đồng một số phận. Trước sự công bình của Thiên Chúa, Yuđa nào có hơn gì Israel. Lời rao giảng của Ysaya cũng nghiêm khắc như lời của Amos, nhưng ngài cũng xác tín về lòng thương xót của Thiên Chúa như Hôsê.

Từ những nguyên tắc hầu như trái nghịch nhau đó của sự quan phòng của Thiên Chúa, Ysaya tổ thuật một thứ triết lý còn sơ sài về lịch sử. Nước như một khối sẽ chịu lấy án của phép công minh Thiên Chúa ra và thế nào cũng bị tiêu diệt, khi không có một sự thay đổi triệt để. Nhưng dù sao, Thiên Chúa không thể bỏ dân của Người. Tai họa tàn phá thế nào đi nữa, Thiên Chúa sẽ chừa lại một số nào đó, dẫu là ít oi, giữa một nước ngụy tặc, nhóm người ấy sẽ quay đầu về với Yavê, trong thống hối và vâng phục, chính nhóm người ấy sẽ là mầm giống cho dân mới của Thiên Chúa: "Số sót sẽ trở lại" (Ys 10 16-23): Ðó là khẩu hiệu, nói lên sự trông cậy của tiên tri vào tương lai của dân Chúa, và tượng trưng cho điều ấy, tiên tri đã đặt tên cho con mình: Shoar yashub.

Và khi cái họa Assur nên trầm trọng, Yuđa cũng như Israel trước kia chỉ loay hoay tìm phương kế bảo toàn mạng sống, bằng những mưu mô người đời, Ysaya đã đành phải rút lui một thời, và ghi tạc giáo huấn vào lòng môn đệ đức tin bất chuyển vào sự trung tín của Yavê. Và Ysaya lại lấy lòng tin bất khuất can gián không được đầu hàng. Và, như ta đã thấy trên kia, binh đội Assur nhất đán đã triệt thoái. Yêrusalem đã thoát nạn! Tại sao tiên tri không có lý mà coi đó là một dấu chỉ của lòng lân mẫn của Thiên Chúa đối với dân của Người. Biến cố ấy so với hậu quả đến sau thực có một tầm quan trọng như tiên tri nghĩ, nhờ đó, mà có một thời chấn chỉnh trước khi khánh tận. Và cũng nhờ đó mà Yuđa có số phận khác Israel phía Bắc: Nước tuy mất, nhưng dân Dothái sống sót để chuyển đi mạc khải họ đã chịu lấy. Biến cố không đánh dấu cho phục hưng tôn giáo trực tiếp, nhưng ít là tiên tri đã có thể thu họp một nhóm môn đệ trung kiên, để niêm ký di chúc giáo huấn của ngài, bắt đầu gầy tạo số sót của Israel, cái cội sẽ đâm chồi nảy lên được một dân thánh mai sau (Ys 8 16-17 6 13).

Việc cải cách tôn giáo theo phong trào Thứ luật

Ðồ đệ các tiên tri lâm nguy kịch dưới triều Manassê. Êzêqya dấy lên chống Assur, và được thoát nạn cách lạ thường với sự chống đỡ của Ysaya như nói trên. Nhưng chẳng bao lâu, sau khi Sennakêrib chết, Assur lại trở lại. Manassê vì nịnh tôn chủ, thì đã để đạo Assur xâm nhập sâu rộng trong dân, và đi cấm cách bắt bớ cả những người trung tín với đạo Yavê. Ðồ đệ các tiên tri phải ẩn núp. Và chẳng bao lâu họ lại xuất hiện: Dưới triều Yôsya. Một cuộc cải cách tôn giáo được tuyên bố. Quyền đô hộ của Assur suy giảm, Yôsya dần dần rũ ách, cái ách phải rũ trước tiên là ách tôn giáo ngoại lai. Người ta nhuận chính lại tất cả luật lệ Israel chiếu theo những nguyên tắc luân lý và tôn giáo các tiên tri đã giảng dạy từ trước đến nay hơn một thế kỷ, từ Amos, Hôsê, Ysaya. Bộ luật mới này được thành hình trong phần chính yếu của Thứ-luật-kinh. Thứ-luật-kinh nói được là công việc san định luật lệ Israel theo các tiên tri. Ðó là một cố gắng đáng được tham khảo như một gương mẫu cho thấy những nguyên tắc tôn giáo được áp dụng làm sao cho những nhu cầu xã hội thực tiễn, lý tưởng công bằng và nhân đạo thành hình thế nào trong một trật tự xã hội còn thô sơ.

Yêrêmya

Nhưng cuộc cải cách của Yôsya không kéo dài được quá 13 năm (621-609). Yuđa bị lôi cuốn vào cuộc chiến đã làm đổ sụp đế quốc Assur. Yôsya chết không đầy 40 tuổi, không để lại một người kế thừa nào tài cán. Những ngày bi đát cho Yuđa bắt đầu. Ðế quốc Babylon dần dần thu lại vào tay mình cơ nghiệp Assur. Các tiểu quốc lại bị đô hộ. Chính trong thời này, một tiên tri lớn khác xuất hiện: Yêrêmya, thuộc dòng dõi tư tế vùng quê, ở Anatôt, một thôn nhỏ của Yuđa, giáp giới Benyamin. Ông là một vị tiên tri mà chúng ta biết rõ hơn các vị khác, nói được là hơn mọi nhân vật nói đến trong Cựu Ước. Trong các chương sách Yêrêmya, có những chương tự thuật cho ta biết được tâm lý của một vị tiên tri, bày tỏ cho ta thấy một dung mạo cô quạnh, bi thảm giữa một xã hội gần tàn.

Ông tiếp tục truyền thống tiên tri, lập lại những giáo huấn căn bản thích ứng với một tình thế đen tối. Trong tình cảnh bi đát ấy, ông đã nhận định một cách sáng suốt về số phận nước ông. Do đó, ông kết luận là cuộc hỏi tội cuối cùng, các tiên tri đã báo trước, bây giờ đã đến nơi rồi, không sao tránh khỏi. Ông chứng kiến việc tàn phá xứ sở ông, đồng bào ông tốp này tốp khác lê thê lên đường đày ải, năm bè bảy mối xâu xé nhau, luân thường đạo nghĩa suy sụp: Án kinh khủng của Thiên Chúa đang diễn ra trước mắt ông.

Bao nhiêu linh cảm đau thương đều đã ứng nghiệm. Nhưng chính khi quốc gia ông sắp sửa tan hoang, ông lại có gì phải đem đến cho dân. Thiên Chúa đã thi hành án công minh. Người còn phải hoạt động theo lòng lân mẫn xót thương, vì một khi Thiên Chúa đã yêu thương dân Người, Người không thể dứt hẳn tình thương của Người. Dân đã vi phạm mọi khoản của trách nhiệm làm dân của Thiên Chúa, đã đơn phương bãi bỏ "Giao ước", và đã tự mình xóa bỏ mọi đặc ân dân được có trước mặt Người. Thế thì sao?


Này sẽ đến những ngày - Sấm của Yavê,
Ta kết với Nhà Israel, cùng với Nhà Yuđa,
một Giao ước mới,
không phải như Giao ước
Ta đã kết với cha ông chúng,
ngày Ta cầm tay chúng,
để đem chúng ra khỏi đất Aicập,
chúng đã hủy bỏ Giao ước của Ta,
mặc dù Ta là tôn chủ của chúng - Sấm của Yavê.
Quả vậy này đây Giao ước
Ta sẽ kết với Nhà Israel,
sau những ngày ấy - Sấm của Yavê,
Ta sẽ đặt luật của Ta nơi tâm tạng chúng,
và trong lòng chúng, Ta sẽ viết vào,
Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng,
còn chúng, chúng sẽ là thần dân của Ta.
Chúng sẽ không còn phải mỗi người dạy bảo nhau,
hay anh em (giáo huấn) nau, những rằng:
Hãy biết Yavê!
Vì chúng hết thảy đều sẽ biết Ta,
từ kẻ bé đến người lớn - Sấm của Yavê,
vì Ta sẽ tha tội ác chúng làm,
và lỗi lầm của chúng, Ta sẽ không còn nhớ đến.
(Yr 31 31-34)

Ðó là một trong những sấm ngôn cắm chặng lịch sử tôn giáo.

Vào lúc thời niên tráng, Yêrêmya đã chứng kiến cuộc cải cách tôn giáo của Yôsya. Ông đã tham dự làm sao vào công việc ấy? Có tác giả hoài nghi. Nhưng có lẽ nhằm với sự thực, khi ta nghĩ rằng ông đã tham gia tích cực, và nồng nhiệt. Cũng như nhiều môn đồ các tiên tri xưa, ông nhìn thấy đó cái đích mà gần một thế kỷ rưỡi rồi, các tâm hồn ưu ái với dân của Thiên Chúa đã nhắm đến. Cả nước đã hồi đầu trở lại với Yavê, Thần của họ, và đã chứng thực lòng hoán cải là long trọng thề nguyền giữ một bộ luật hoàn hảo hơn, và về luân lý xã hội, thì cũng ứng đáp phần nào với rao giảng của các tiên tri. Nhưng làm sao biết một nước thành dân lương thiện bằng một nghị định được! Như Yêrêmya nói: Há dân Á (dân da đen) lại thay da? Beo hùm đổi lốt? Các ngươi, làm sao các ngươi có thể làm lành, các ngươi, phường đã quen với sự dữ! (Yr 13 23). Viết điều lương thiện thành luật không đủ, có ghi khắc trong lòng người ta mới mong cải hóa. Nói cách khác, căn cứ độc nhất xứng hợp với nghĩa tâm giao với Thiên Chúa, phải là một sự am hiểu tự bên trong, tự chính mình người ta, và cùng với sự am hiểu, phải có một sự ứng đáp bên trong, tự chính mình người ta nữa. Các tiên tri trước không phải là không biết vai trò của nhân bản trong tôn giáo. Giáo huấn của các tiên tri bao giờ cũng đòi hỏi có thái độ đích thân trước những yêu sách của Thiên Chúa. Nhưng trong khi tất cả cơ cấu của đạo đã thành qui chế đều tan rã, điều Yêrêmya tiên báo, sự canh tân đổi mới sâu thẳm do tự Thiên Chúa đến cho con người để thực hiện Giao ước mới, điều ấy có tầm quan trọng đặc biệt cho tất cả trình tự diễn tiến của mạc khải sau này.

Êzêkiel


Bấy giờ là thời lưu đày. Năm -598, -586, rồi -582, người Dothái lượt này lượt khác bị bắt đi lưu đày, mãi tận vùng Babylon. Có một tiên tri sống giữa họ, Êzêkiel. Cũng như Yêrêmya, ông thuộc hàng tư tế, và lại là tư tế ở kinh đô, tư tế họ Sađốc, chủ trì tại đền thờ Yêrusalem từ thời Salômon. Người ta mệnh danh ông là "tiên tri về sự tái thiết". Quả thực, trong sách của ông có lắm điều nhắm đến việc cải tổ cộng đoàn, có cả những đồ án về việc xây lại Ðền thờ, và phân chia Ðất Hứa. Ngang qua những chương không mấy tí hấp dẫn ấy, lóe lên xác tín sâu thẳm: Israel dù thế nào cũng có một tương lai. Cứ theo thực trạng mà xét, thì không có tí gì bảo đảm cho hi vọng ấy. Thế mà thực sự, các hoài vọng ấy đã được thực hiện (tuy có khác với dự tưởng của Êzêkiel). Lý do làm ông trông cậy, không phải vì ông đã biến nhìn thời thế mà so đo hơn thiệt, nhưng chính là lòng tin vào sự trung thành bất biến của Thiên Chúa Giao Ước. Dù trái nghịch với những điều thấy được, ông cũng như các tiên tri trước đều tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Israel mà Người đã chọn.

Êzêkiel đã thấm nhuần đạo lý của Yêrêmya về phần cá nhân trong Giao ước mới. Ông nhấn một cách, hầu nói được là quá đáng vào trách nhiệm của mỗi người trước mặt Thiên Chúa. Có khi ông quên cân nhắc phần nào về ảnh hưởng của di truyền, của xã hội trên tính tình và vận mạng của cá nhân. Nhưng cứ xét một cách tổng quát, thì Êzêkiel không có chủ trương chủ nghĩa cá nhân. Ðiều ông muốn cho thấy, là không thể có canh tân đoàn thể, nếu từng người một mà không hối cải. Và nguyên nhân cuối cùng của việc đổi mới lại chính là lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng lòng thương xót ấy kêu gọi từng người ứng đáp lại.

Một chương đặc sắc của ông, là đoạn 37: Trong đó Êzêkiel lấy tưởng tượng mà họa cuộc phục sinh của dân tộc. Ông thấy mình đứng giữa chiến trường năm xưa, xương tử sĩ phơi bày trắng xóa khắp cánh đồng. Lời Thiên Chúa hô lên, và các xương rải rác mỗi nơi một cái đến chắp nối, đâu lại với nhau, mặc lấy da thịt. Một luồng khí thiêng thổi đến, và các thây ma không hồn hồi dương đứng lên (Coi Ez 37 1-14).

Và thực sự, cuộc phục hưng của Israel nói được là một sự phục sinh từ cõi chết. Nhưng ý nghĩa hàm ẩn là không có một tình cảnh nào thất vọng đến nỗi ơn Thiên Chúa không thể tái tạo trùng hưng. Người là Ðấng dẫn đưa lịch sử theo những con đường huyền bí khôn lường. Ðến thời Người đã định, sẽ không có mãnh lực nào cản ngăn được Người. Ðó là lòng tin khắc sâu trong tâm hồn những kẻ lưu đày khi họ phải chạm trán với tương lai mịt mù của dân họ.

Ysaya thứ hai

Yêrusalem đã bị triệt hạ gần một nửa thế kỷ. Một thế hệ mới đã lớn lên trong chốn lưu đày. Một quyền bá chủ khác đã thay chân Babylon. Vua Kyrô, người sáng lập đế quốc Batư, thi hành một chính sách khoan hồng, và cho mọi kẻ lưu đày được phép hồi hương. Nhưng đất khách quê người đã nên quê thật cho nhiều người. Ít người sốt sắng hưởng ứng tiếng gọi quê hương, một cái quê hương hoang tàn, đã ra nghèo xơ xác. Chỉ có một nhóm nhỏ nhìn thấy nơi sắc chỉ nhà vua một dấu hiệu họ ngóng chờ. Họ mới nhận ra đó là việc của Thiên Chúa: Thời phục hưng Israel đã đến. Các người ấy đã được chuẩn bị tâm hồn nhờ lời giảng dạy của một tiên tri lớn vào bậc nhất, nhưng lại vô danh đối với ta. Các lời sấm của ông được di lưu trong sách sấm ngôn của Ysaya, tiên tri thế kỷ thứ 8 ở Yêrusalem. Ðó là các đoạn 40 đến 55. Ðể tiện bề nói năng, người ta mệnh danh ông là Ysaya thứ hai.

Vị tiên tri này đã để lại những bài thơ tuyệt cú vào hạng nhất trong Kinh thánh - thơ đã thoát những cái khúc mắc tối tăm của ít nhiều vị tiền bối, hình ảnh lộng lẫy và khí khái, ngôn ngữ phong phú, tư tưởng cao siêu, chạm đến tuyệt đỉnh. Các điều bàn đến là những chủ đề cùng tột của tư tưởng tôn giáo: Vương quyền, vinh quang của Thiên Chúa đối với nhân loại. Nhân danh Thiên Chúa, tiên tri loan báo thời phục hưng của Israel, và kêu gọi dân Lưu đày hồi hương, lập lại cơ nghiệp:

Ðẹp thay trên các núi non
chân người sứ giả
kẻ báo cáo bình an,
kẻ loan báo tin mừng,
kẻ báo cáo ơn cứu độ,
kẻ nói với Sion:
"Người đã làm vua, Thiên Chúa ngươi thờ!"
Quân canh của ngươi gióng tiếng,
tất cả một trật chúng hò reo,
vì mọi mắt đổ dồn, chúng sẽ thấy
Yavê trở lại Sion.
Hãy hân hoan, hãy reo hò cả lên,
hỡi cảnh hoang tàn Salem,
vì Yavê an ủi dân Người,
Người đã chuộc lại Salem.
Yavê đã xắn cánh tay thần thánh của Người,
trước mắt muôn dân,
và cùng cốc địa hoàn hết thảy
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa ta thờ.
Lui đi! Lui đi, ra khỏi đây!
Ðừng rờ đến những gì ô uế.
Ra khỏi nó đi, thanh tẩy ngay đi,
hỡi những người khiêng kiệu đồ thờ Yavê!
Các ngươi sẽ không phải vội vã ra đi,
không phải lên đường như quân tẩu thoát,
vì Yavê cầm đầu đi trước các ngươi,
và binh bọc hậu sẽ là Thiên Chúa Israel thờ.
(Ys 52 7-12)


Ðó là tâm trạng của những người hồi hương khi tra tay vào việc tái thiết. Ðoàn thể của những người ấy: Về chính trị, nói được là một con số không, về đất đai, không tày một tỉnh nhỏ của ta, về binh bị và tài nguyên, rất hạn chế. Nhưng cộng đoàn của họ đã nên trung tâm một đạo lan rộng khắp nơi, theo một tổ chức không hề thấy đâu có như thế, còn về ảnh hưởng nói được là khôn lường. Xét cả lịch sử sau này, ta sẽ không nói quá, khi bảo rằng nếu nhóm người ấy không tra tay vào việc, thì thế giới sẽ không bao giờ biết đến 3 yếu tố quan hệ bậc nhất cho tất cả lịch sử vị lai: Tức là đạo Dothái-giáo, Kitô-giáo, và Hồi-giáo. Việc hồi hương của những người Dothái đi đày về là một biến cố, cho dù xét về kích thước địa dư thì hầu như số không, nhưng xét về mọi mặt khác, thực là một lúc quyết định, mà một sử gia phải để ý.

Giải thích lịch sử theo tiên tri

Biến cố vừa nói không phải là điều thường xảy ra. Làm sao dân Dothái lại sống sót, trong khi biết bao dân tộc thời xưa khác không chóng thì chầy đã mất tất cả cái bản ngã, và danh tính của họ mai một khi phải trà trộn làm dân các đế quốc Tiểu Á cổ thời? Không mấy dân bị tàn phá như thế: Bại trận liên tiếp, vỏn vẹn còn một nhóm sót lại, bị phát lưu tha phương, dưới một ách đô hộ lâu năm của những quyền bính xa lạ và lại văn minh! Thế mà người Dothái vẫn còn sống, đã tái thiết cộng đoàn của họ và chuyển lại một truyền thống luôn phát triển thêm, một truyền thống chứng tỏ có ảnh hưởng kiến tạo trên tất cả lịch sử về sau. Tại sao như vậy? Câu trả lời chỉ có thể là: Các tiên tri trong vòng hai thế kỷ đã tổ thuật được một giải thích đặc biệt về trình tự lịch sử và đã gây được người hưởng ứng, một số người vừa đủ để làm cho lịch sử đến sau phải quay hướng mới.

Thực ra chính các tiên tri, thì họ không nghĩ thế. Họ không phải là triết gia lập thuyết một cách trừu tượng, sau khi đã quan sát sự đời. Họ tự giới thiệu bằng kiểu nói của sứ giả: Yavê phán thế này! Họ tin chắc rằng chính Thiên Chúa đã phán với họ (cách nào, một vấn đề thuộc hiện tượng thần bí). Thiên Chúa phán với họ qua các biến cố họ sống. Cách họ giải thích lịch sử không phải do hoạt động của trí khôn họ. Ðó là ý nghĩa họ thấy chính trong biến cố, khi lòng trí họ mở ra cho Thiên Chúa, cũng như giác quan họ mở ra cho sự kiện bên ngoài. Vì thế cho nên việc giải thích lịch sử do các tiên tri, cũng như hướng và ảnh hưởng trên lịch sử, được đồng hóa với Lời Thiên Chúa ngỏ với loài người.

Trong các chương tiên tri, không có chương nào tỏ cho ta thấy minh bạch và sống động những nguồn hứng của tiên tri cho bằng trình thuật của Ysaya về thiên triệu của ông. Ông được kêu gọi trong một thị kiến. Một thị kiến tả với tất cả những hình ảnh tôn nghiêm về tôn giáo trong môi trường của ông. Muốn họi được ý nghĩa, phải tưởng tượng khung cảnh, và cho mỗi hình ảnh cái sức nặng của nó trên tình cảm của người xưa. Một người quí phái ưu thời mẫn thế, kinh lịch về những vấn đề chính trị xã hội của nước nhà, vào thời chuyển ngôi trong lúc eo le trên chính trường quốc tế, trang thiếu niên này cũng sẽ có phần trong các vấn đề ấy, nhưng trên một bình diện khác xa cái bình diện của việc đàm luận chính trị thường tình. Ông vừa tham dự lễ bái trong Ðền thờ và còn đứng đó trầm ngâm suy nghĩ, mắt đăm đăm nhìn tế đàn khói hi sinh nghi ngút và nhấp nhô trong làn khói những hình thù chạm trổ những linh vật diệu kỳ. Với cảnh trí ấy ta hãy đọc:

Năm vua Ôzya chết, tôi đã được thấy Ðức Chúa ngự trên ngai cao thăm thẳm, tà cẩm bào lấp đầy Ðền thờ. Có những Sêraphim đứng chầu bên trên, mỗi vị có sáu cánh, lấy hai cánh phủ mặt, hai cánh che thân, và hai cánh để bay. Vị này hô, vị khác đáp, rằng:
"Thánh, Thánh, Thánh, Yavê các cơ binh!
vinh quang Người mãn đầy càn khôn".

Trụ cửa bên thềm rung chuyển cả lên vì tiếng các vị hô ra, còn đền trong nghi ngút khói

Bấy giờ tôi nói: "Khốn cho tôi! Tôi bị tiêu diệt mất, vì tôi môi phàm ô uế, tôi lại ngụ giữa một dân môi phàm ô uế, mà chính mắt tôi đã thấy Ðức Vua, Yavê các cơ binh!" Nhưng một vị trong hàng Sêraphim bay lại bên tôi, nơi tay ngài một cục than hồng, ngài đã lấy kẹp gắp ở tế đàn. Ngài để than hồng chạm miệng tôi và nói: "Ðây, cái này đã chạm miệng ngươi, thì tội ác ngươi tan, lỗi lầm của ngươi được khỏa". Ðoạn tôi đã nghe tiếng Ðức Chúa phán: "Ta sẽ sai ai? Ai sẽ đi thay chúng ta?" Và tôi đã thưa: "Này tôi đây, xin Người sai tôi".
(Ysaya 6 1-8)

Ðó là một kinh nghiệm căn bản, cắm sâu vào bản ngã của một con người. Nơi kinh nghiệm ấy, đã gồm tóm tất cả những gì là cốt thiết cho việc giải thích lịch sử của các tiên tri: Có trong kinh nghiệm ấy cái ý thức về uy quyền và thánh thiện của Thiên Chúa Yavê như điều căn bản của tất cả mọi sự. Ðã có con người trước nhan Thiên Chúa, vừa bị lên án vừa được thứ tha. Ðã có lời kêu gọi của Thiên Chúa và tiếng ứng đáp của người ta. Ysaya cũng như tất cả các bạn tiên tri, hết thảy đều nói: Ý nghĩa lịch sử là gì? Ấy là chính Thiên Chúa đứng trước mặt loài người, trong sự phán xét và trong lòng thương xót của Người, ra một lời hiệu triệu đòi phải ứng đáp. Họ đã giải thích lịch sử như thế, và họ đã lôi kéo được một nhóm người sẵn sàng đón nhận phưong diện của họ. Chính vì thế mà lịch sử đã mặc lấy cái chiều lịch sử đã có. Như lược toát công việc các tiên tri trên này đã cho ta thấy, từ Ysaya được thị kiến và được kêu gọi làm tiên tri cho đến việc tái tạo cộng đoàn Dothái vào thế kỷ thứ 6, đã có một chuỗi biến cố liên tiếp và cùng với biến cố có kèm theo sự am hiểu chúng. Chính chuỗi biến cố cùng với sự am hiểu theo nhỡn giới tiên tri ấy đã có những hậu quả vĩ đại cho lịch sử về những thế kỷ sau.

Ta phải lấy sự am hiểu lịch sử theo các tiên tri đó làm chỉ nam để đi vào ý nghĩa của tất cả Cựu Ước. Như trên kia đã nói, các sách Cựu Ước, trong hình thức còn lại, đều đã được viết sau thời các tiên tri, và mang dấu tích của ảnh hưởng tiên tri. Các sách lịch sử đã được soạn lại, theo những biên niên sử, và hồ sơ xưa để lại, nhưng do tay các đồ đệ của các tiên tri. Và Ngũ kinh cũng được san định dưới ảnh hưởng các tiên tri. Ơn kêu gọi của Abraham, ơn kêu gọi của Môsê đều đã được tả lại bằng những từ ngữ các tiên tri đã dùng để nói về thiên triệu của họ. Các môn đồ tiên tri đã tra tay viết lại lịch sử Israel là có ý cho thấy ý nghĩa chấp chứa trong đó, chiếu theo giáo huấn của các tiên tri. Sau khi đã biết qua lịch sử những thế kỷ quyết định về ý nghĩa tôn giáo của lịch sử, chúng ta xét qua những phần khác của Quy điển Cựu Ước, trong trình tự lịch sử.

Thời Xuất hành khỏi Aicập

Các tiên tri không xuất hiện như những người sáng lập tôn giáo. Ðiều họ nói không phải là mới lạ. Trước họ, Israel đã biết đến những mạc khải của Thiên Chúa trong lịch sử. Chặng nền tảng mà các tiên tri đã dựa vào là việc Thiên Chúa đã đưa Israel ra khỏi Aicập. Xuất hành khỏi Aicập đối với các tiên tri là một việc can thiệp quyết liệt của Thiên Chúa hằng sống trong lịch sử đã qua và cái mốc vững chãi hướng dẫn mọi bàn luận về đường lối của Thiên Chúa đối với dân của Người.

Về các biến cố xảy ra thời Xuất hành, chúng ta không có trình thuật nào xấp xỉ đồng thời. Truyện được lưu lại bằng những truyền tụng có tính cách truyền kỳ. Nhưng đối với nhân chủng học ngày nay, truyền kỳ cũng là nguồn tham khảo lịch sử rất đáng kể. Vì truyền kỳ là thể văn những ký ức về thời khai sáng các dân tộc thường mặc lấy. Những thời kỳ trong đó một văn minh, hay một trật tự xã hội mới khai diễn, bắt đầu tự những giao động khó xác định tiếp theo sau những cuộc di dân lớn. Trong những thời ấy, lịch sử ở vào thế động. Những đòi hỏi của thời thế làm xuất thế những bậc anh tài, những thủ lĩnh lỗi lạc, làm nên những huân công nói được là siêu phàm. Các sử gia thường so sánh những ngày đầu của Israel và Môsê với những năm đầu của Hồi giáo và Môhamet. Trong những trường hợp ấy, người ta không nghĩ đến viết sử, nhưng các việc xảy ra in sâu vào ký ức dân tộc và chuyển lại hậu thế bằng truyền tụng. Thời đầu của Israel đây kéo dài từ Xuất hành cho đến hết thời các Thẩm phán: Thời oanh liệt của Israel đi vào lịch sử. Thời này dung mạo nổi bật là Môsê.

Những sự kiện bên ngoài có thể nói sơ lược thế này: Hình như có ít bộ lạc, sau này sẽ làm thành Israel, đã đến ngụ cư ở bên rìa Aicập, như nhiều dân du mục văn kiện Aicập còn thuật lại, để sống độ nhờ, nhân những thời khó sinh sống trong sa mạc. Dân du mục chuộng tự do, họ đã quen vẫy vùng trong sa mạc. Vậy những người Hipri này vào một thời có chinh chiến, đã bị quyền bính Aicập biên thùy sử dụng làm nô dịch. Tính tình phóng khoáng của họ không thể chịu được áp bức, và họ đã rũ bỏ ách nô lệ, mà rong vào sa mạc, sống lại đời du mục. Họ đã có quả cảm làm thế bởi được một người cầm đầu tài cán hướng dẫn và đem họ vào sa mạc. Trong sa mạc, người ấy đã làm cho họ chấp nhận một tổ chức sơ lược về luật lệ và tôn giáo, nhờ đó họ đã có được một sinh hoạt chung tạm tạm, dẫn họ dần dần đến ý thức đoàn kết chính trị, manh nha cho việc kết thành dân tộc sau này. Ðược các kinh nghiệm ấy đào luyện và xiết chặt nội bộ hơn, họ đã vào đất Canaan, tức là Phalệtin ngày nay và choán lấy đất đai từ những vùng ít dân cư, rồi lấn dần các nhóm dân trong xứ.

Tất cả lịch sử thời này quây quần xung quanh một dung mạo, Môsê. Lấy các tiên tri chúng ta biết rõ thời sau mà so sánh, ta có thể nhận ra được nơi ông, một vị tiên tri lớn, theo một mẫu cựu trào. Cũng như Ysaya và các vị khác, ông đã được Thiên Chúa kêu gọi. Trong khi ông còn đang chăn cừu, ông đã được nghe tiếng gọi giữa một ngọn lửa bốc cháy:

"Cởi dép khỏi chân đi! Vì chỗ ngươi đứng là thánh địa đó!" Và Môsê che mặt đi, vì ông sợ không dám nhìn đến Thần Linh. Yavê phán: "Ta thấy rõ cảnh khốn đốn của dân Ta ở Aicập, và Ta đã nghe tiếng chúng kêu lên trước mặt bọn đốc công, quả Ta đã biết các nỗi đau đớn của chúng... Vậy bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô. Ngươi hãy đem dân Ta, con cái Israel, ra khỏi Aicập"
(Xh 3 1-10).

Môsê đã muốn cưỡng lại, nhưng sau cùng ông đã chịu lấy sứ mạng và lịch sử bắt đầu diễn theo một hướng mới.

Ngang qua trình thuật có vẻ truyền kỳ ấy, ta đọc ra được một kinh nghiệm thẳm sâu của con người, cũng như trong đoạn trích lục trên kia về Ysaya: Ý thức lạ lùng về bí nhiệm và uy quyền của Thiên Chúa, con người rụt rè kinh sợ bởi sự tao phùng kỳ diệu ấy và sự tùng phục cuối cùng trước lịnh truyền của Thiên Chúa. Thiên triệu, một kinh nghiệm độc đáo của một cá nhân, nhưng liên lạc trực tiếp với những nhu cầu và số mạng một dân tộc. Chính do Lời Thiên Chúa, ban xuống cho một người, mà toàn dân được hứng khởi lăn xả vào cuộc phiêu lưu. Chính nhờ bởi Thiên Chúa quan phòng mà họ đã ngang qua khúc biển vô sự, thoát khỏi binh đội biên thùy Aicập. Luật lệ Môsê đã làm cho dân chịu lấy những khoản của Giao ước, do đó Israel trở thành dân của Thần Linh họ thờ. Tất cả sự việc được doãn lại như một hành động của Thiên Chúa trong lịch sử. Bởi các biến cố đã được hiểu như thế, và các nước Israel và Yuđa sau này phát xuất từ việc các bộ lạc Israel chiếm được Phalệtin đã sống trong Giao ước Môsê, có Yavê làm như tôn chủ, nên các nước ấy đã có thể làm môi trường cho giáo huấn của các tiên tri về Mạc khải của Thiên Chúa trong lịch sử.

Thời các Tổ phụ

Nhưng Xuất hành là kết thúc cho một quá khứ dần dà đem Israel xuống Aicập. Và điều Israel tin trước tiên là Ðấng đã đưa Israel ra khỏi Aicập vẫn là Thần linh cha ông các ngươi thờ, Thần của Abraham, Thần của Isaac, Thần của Yacob (Xh 3 6-15). Các dân tộc đều có những truyền kỳ về tổ tiên xa xưa của họ. Những tổ tiên Israel nhận là của họ không có gì là đặc sắc. Một nét son đáng ghi về tính cách lịch sử. Trong lời tuyên xưng đức tin Giao ước vào dịp lễ Ðầu mùa: Cha tôi là một người Aram phiêu lạc, ngài xuống Aicập và đã ngụ nhờ ở đó, với ít mạng người (Tl 26 5). Israel nhận rằng vị tổ của dòng giống thuộc nhóm du mục, gốc Aram, miền Bắc Syri rồi lan dần xuống Nam, mãi cho đến Aicập. Tên gọi các người nay đây mai đó trên "vành trăng khuyết phì nhiêu" (giải đất cong vòng cung, ép giữa Ðịa-trung-hải và sa mạc Árập, chạy từ Lưỡng-hà-địa qua Aicập) là Abraham, Ysaac và Yacob. Truyện tích về họ, miệng truyền miệng qua hằng mấy thế đại, sau cùng đã được ghi lại trong kinh Khởi Nguyên. Những sự tích bình dân, không móc nối với lịch sử một thời rõ rệt.

Nhưng đằng sau, có lịch sử. Bức họa vẽ lại sinh hoạt du mục ngang dọc trong giải đất đi từ Nilô đến Phơrát xác đáng cách lạ. Ðàng khác dân Aram du mục không phải là hạng người man rợ. Họ đã đụng chạm với văn minh Lưỡng-hà-địa. Vào thời chúng ta có thể phỏng đoán để đặt Abraham, Lưỡng-hà-địa đã có một dĩ vãng văn hiến gần hai ngàn năm. Giữa cả phong trào di dân thời ấy, bộ lạc Abraham nói được chỉ là gợn nước trong biển cả. Nhưng xét chung với những gì vị lai đem đến, việc Abraham ra đi là một khúc ngoặt trong lịch sử.

Trong hoàn cảnh nào, chính trị, kinh tế, hay chiến tranh, đã khiến bộ lạc Abraham bước chân ra đi? Văn kiện đồng thời không hòng có được. Thánh sử chỉ tuyên ngôn rằng: Abraham đã được kêu gọi:

Yavê phán với Abraham:
"Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi sinh quán ngươi,
khỏi nhà cha ngươi, mà đến Ðất Ta sẽ trỏ cho ngươi".
(Kn 12 1)

Và thư Hipri chú thích: Bởi tin, Abraham vâng theo lời kêu gọi, ra đi đến xứ ông sẽ được hưởng làm gia nghiệp, ông ra đi mà không biết mình đến nơi nào. Lời ứng đáp với tiếng gọi bên trong được bày tỏ ra một cách đặc biệt trong sự từ bỏ, sẵn sàng cắt đức mọi liên lạc cốt nhục để liều mạng đi vào phiêu lưu vô định. Trở lại tín thư của các tiên tri, ta nhớ lại cách thức Thiên Chúa can thiệp. Lời Thiên Chúa nhồi nặn lịch sử làm sao khi đến cho một người, và khi người ấy nhìn thấy ở đó ý nghĩa của sự nghiệp đời mình và ứng đáp, thì Lời Thiên Chúa đã chuyển hướng lịch sử làm sao. Ðây cũng vậy, tuy còn là mới khai mào, thực có một sứ mạng tiên tri.

Thánh sử là thế, biến cố được soi dọi bởi lời tiên tri. Và những chóp đỉnh là các biến cố chúng ta vừa lược toát: Thiên triệu của Abraham, Xuất hành khỏi Aicập, cuộc tranh đấu lâu dài kết thúc nơi việc phát lưu ở Babylon và cuộc phục hưng sau đó. Ðó là những điểm quyết liệt cho trình tự thánh sử ngang qua đó Kinh Thánh muốn cho ta nhận thấy Mạc khải của Thiên Chúa hoạt động và cũng phác ra cái mẫu mà toàn thể lịch sử cũng họa lại cách này hay cách khác.

Thời sau Lưu đày

Chúng ta đã nói trên kia đến thời Israel phục hưng, tức là cuối thế kỷ thứ 6. Trong năm thế kỷ còn lại cho đến thời Tân Ước, các thư tịch Cựu Ước được thành hình như ta có ngày nay. Nhưng về biến cố bên ngoài, văn chương thời này không còn để lại cho ta mấy tí, khác với những hồ sơ phong phú của năm thế kỷ trước.

Ðiều cũng lạ. Vì trong thế giới xung quanh biết bao là biến động: Những đế quốc bao la dồn dập thăng trầm, Ðế quốc Batư sụp đổ, Alexandrô Ðại đế chinh Ðông kích Tây, đem quân cho mãi đến Ấnđộ, nhưng đế quốc của ông tan rã ngay khi ông chết, rồi các tướng lãnh của ông tranh hùng tranh bá, mãi cho đến khi Rôma vào cuộc và chiếm lấy cả gia tài thiên hạ. Nước Yuđa tí tẹo dạt bên này, dạt bên kia, khong còn làm chủ vận mạng của mình. Và trí não dân Dothái cũng dửng dưng với thời cuộc ấy. Thời cuộc ấy không làm cho lòng tin của họ phải đặt lại vấn đề: Hiểu sao về đường lối của Thiên Chúa đối với loài người.

Duy chỉ có một lần, mà biến cố đã kích động thâm sâu đến lòng tin của Israel: Ấy là vào thế kỷ thứ hai, ông vua Hilạp bá chủ Syri, hiệu là Antiôkhô Êpiphanê, nảy ra mưu đồ thống nhất giang sơn bằng văn hóa Hilạp, để làm cho xong công việc đồng hóa những dân khác biệt trong đế quốc. Ông nhất định áp dụng chương trình ấy cho cả người Dothái. Họ cũng phải tuân theo luật lệ của nhà nước về tôn giáo, một tôn giáo hỗn hợp. Người Dothái từ trước đến giờ không hề có thái độ câu nệ đối với văn hoá Hilạp, họ nói tiếng Hilạp, họ cũng học đòi nhiều tục lệ Hilạp như những thành phần khác của đế quốc Syri. Nhưng bây giờ họ đã kháng cự, vì lịnh nhà vua bây giờ đả động tới chính sự trung tín của họ đối với đạo. Chính quyền đàn áp, và xui lên dấy loạn: Một cuộc khởi nghĩa vừa là tôn giáo, vừa thuộc quốc gia, dưới sự lãnh đạo của một gia đình, với sự điều khiển của vị anh hùng Yuđa Macabê. Nhờ tài cán của ông và sự khôn khéo của những kẻ kế tiếp ông, người Dothái đã dành được quyền độc lập chính trị. Giai đoạn lịch sử này đã được thuật lại trong các sách Macabê, và đã in dấu sâu đậm trên các trước tác viết vào thời này. Ðó là biến cố có lẽ là độc nhất thời sau Lưu đày đã gợi lên được ý nghĩa thiêng liêng cao cả sánh được với lịch sử thời các tiên tri.

Nhưng tầm quan trọng của thời sau Lưu đày không cốt là nơi các biến cố bên ngoài, mà chính là ở nơi nỗ lực gầy dựng sinh hoạt bên trong của cộng đoàn Dothái. Ðây là thời Giáo huấn của các tiên tri được bá cập dến dân chúng, chứ không còn đóng kín trong một nhóm môn đệ. Cộng đoàn Dothái luôn luôn cố gắng đặt tất cả trật tự xã hội trên nền tảng là Luật của Thiên Chúa, làm sao cho Luật ấy được ăn sâu vào lòng người ta, theo lý tưởng các tiên tri Yêrêmya và Êzêkiel.

Các luật lệ của Israel, thuộc nhiều thời đại, có khi lên rất xa trong quá khứ, đã được sưu tập và kết thành bộ, kèm theo những chú thích này khác. Công việc được làm thành sách chúng ta gọi là Ngũ Kinh. Ngũ kinh được thành hình như có hiện tại vào lối thế kỷ thứ 4 trước Kỷ nguyên. Cũng vậy bút tích của các tiên tri cũng được sưu tầm, sắp đặt lại và viết thành sách để truyền lại cho hậu thế. Các biên niên sử của các thời xưa được san định với mục đích là làm nổi bật giáo huấn của các tiên tri, cái quan tâm đến sử như sử học ngày nay là một hiện tượng khá muộn thời trong lịch sử nhân loại. Còn tế tự nơi Ðền thờ cũng được chỉnh đốn một cách ngăn nắp, và tỉ mỉ, để duy trì tất cả những truyền thống cổ thời của phụng vụ Israel, và thích nghi sao để có thể diễn tả những quan niệm cao siêu theo đạo lý các tiên tri về việc phụng thờ Thiên Chúa. Sách Thánh Vịnh được soạn ra gồm các bài hát tụng, xưa có (có bản lên đến Ðavít), nay có, để làm thành sách ca ngợi dùng trong phụng vụ của Ðền thờ.

Cùng với Lề luật và phụng vụ, còn có việc đào tạo về tôn giáo, giáo dục con người sống trong Giao ước. Khu vực văn chương này được tiêu biểu nơi các sách mệnh danh là các "sách Khôn ngoan": Như sách Cách ngôn, sách Huấn ca, tàng trữ lại những châm ngôn của hiền nhân và những lời răn khuyên đạo nghĩa. Lời lẽ muốn nói với hạng bình dân, mà cũng là bài học cho những thanh niên thụ giáo với hiền nhân. Thuộc một suy tư cao hơn, sách Yob là cuộc đàm thoại bằng thơ, những câu thơ bất hủ, lộng lẫy về hình ảnh, rất kêu về âm thanh, nói lên vấn đề đau khổ và vai trò đau khổ trong trật tự quan phòng của Thiên Chúa. Còn muộn hơn cả là Sách Khôn ngoan có tính cách một thiên luận triết lý với áo thơ đài các, cống hiến của Dothái nói tiếng Hilạp ở Alexandria.

Cộng đoàn đã được tái thiết với tinh thần của các tiên tri. Nhưng càng lâu, với kinh nghiệm tôn giáo và sự đời, người ta cảm thấy có gì còn thiếu sót. Giải thích lịch sử về nền tảng cho xã hội đạo Dothái, vẫn chưa đạt thấu cái tối hậu. Các tiên tri tuyên bố lịch sử diễn ra trong một trật tự luân lý, xác định bởi thánh ý Thiên Chúa. Nói tổng quát, thì tội và họa đi liền với nhau, và hoàn toàn trung tín với luật của Thiên Chúa thì thế nào cũng được chúc lành.
Không có ai lên tiếng phủ nhận lập trường căn bản ấy. Nhưng làm sao lấy kinh nghiệm thực tế mà chứng minh điều ấy? Khi ngó đến số mạng mỗi người để áp dụng nguyên tắc, "thiện ác đáo đầu chung hữu báo", họa tai trên đời dành cho kẻ dữ, thịnh vượng là phần kẻ lành, thì thực tế khác hẳn: Chẳng những một người hoài nghi như Qohelet cho thế là sai, mà nhà thơ thâm thúy như Yob cũng đả kích. Rồi ngay việc áp dụng cho đoàn thể, nguyên tắc cũng khó nghiệm thấy sau bao thế kỷ trôi qua. Dân Dothái sau Lưu đày mài miệt với Lề luật của Thiên Chúa, mà suốt cả thời gian ấy bao giờ cũng vẫn là dân bị trị, bị áp bức và luôn ở trong tình cảnh bần cùng.

Tư tưởng Dothái dần dần đi đến một lập trường uyển chuyển hơn, hay đúng hơn, đến một tế nhận đầy đủ hơn. Lịch sử đứng trong một trật tự luân lý, điều ấy có thực, một trật tự ở dưới sự phán xét của Thiên Chúa hằng sống. Nhưng điều ấy không thể chứng nghiệm được nơi bình diện lịch sử như chúng ta biết được. Lịch sử nhân loại có tính cách bi kịch, mà lý lẽ không giải nổi. Ðiều ấy chỉ có thể nhận được trên một bình diện siêu lịch sử, siêu thời gian, khác với bình diện mà loài người kinh nghiệm được. Phải, lịch sử theo bình diện ấy mới chắc chắn có thành tựu, có hoàn tất. Một cách nào đó, vào một thời Thiên Chúa định, lịch sử sẽ đạt thấu chóp đỉnh. Ý định của Thiên Chúa, tỏ bày phần nào đó suốt lịch sử, sẽ được dẫn đến chung cục, mạc khải ra toàn diện. Ðạo lý ấy (đạo lý Cánh chung, vì nói đến sự cùng sau hết) được thể hiện trong một loại văn chương mới, đã phát sinh một phần nào đó với Êzêkiel, nhưng chỉ bành trướng vào những thời khó khăn khá muộn, đó là loại văn chương thường gọi là "khải huyền" (tỏ bày ra sự huyền bí trong ý định của Thiên Chúa).

Sách tiêu biểu nhất cho loại văn này còn lưu tồn trong Cựu Ước là Sách Ðaniel. Sách này phát xuất trong thời Antiôkhô Êpiphanê cấm đạo. Bao nhiêu đau khổ người Dothái phải chịu vào thời này làm cho những nghi vấn về sự Thiên Chúa quan phòng trong lịch sử bấy giờ đạt đến mức gay cấn. Các đau khổ ấy không chỉ xảy đến cho một dân đã nỗ lực sống theo luật của Thiên Chúa, mà hơn nữa, lại giáng xuống những thành phần ưu tú nhất của dân Chúa. Vậy thì còn nói làm sao được là lịch sử thi hành sự phán xét của Thiên Chúa?

Ðể trả lời cho nghi vấn, tác giả sách Ðaniel viện đến một thứ triết lý về lịch sử: trong thời hiện tại, vì những lý do riêng chỉ có Người biết, Thiên Chúa để cho các mãnh lực thế gian này được tự ý hoạt động. Chúng được tự do đến nỗi có thể kháng cự được cả ý định của Người. Và bởi đó, những ai mến chuộng thánh ý Người, đành lòng giữ luật của Người sẽ phải chịu đựng nhiều sự đau đớn. Nhưng cho dù thế, Ðấng Tối Cao trị vì trên vương quyền nhân loại (Ðaniel 4 14-22). Sự đau khổ người lành phải chịu chẳng những thử luyện lòng trung kiên và tăng thêm can đảm cho họ, mà còn dọn một cách bí nhiệm lịch sử kết thúc một ngày kia như ý Thiên Chúa muốn. Khi Thời ấy đến, Thiên Chúa sẽ thi thố quyền năng của Người ra mà lập một Nước công chính vô cùng vô tận.

Ðạo lý ấy được diễn đạt bằng những hình ảnh tượng trưng, những cảnh thị kiến. Cách riêng có hai thị kiến song song đối chiếu và bổ túc cho nhau. Thị kiến thứ nhất cho thấy một pho tượng khổng lồ, thể hiện cho tất cả các đế quốc ngoại đạo. Tượng làm bằng những chất liệu khác nhau, tức là những bạo quyền thống trị nhân loại, khác nhau, nhưng cũng chỉ là một quyền bính, quyền bính của sự dữ. Nhưng bỗng đâu có viên đá từ núi tách ra, không do tay phàm nào cả, mà đập vào chân tượng làm nó tan tành thành mảnh.

Bấy giờ tan tành cả một trật, sắt với đất, đồng với bạc vàng. Chúng ra như trấu lép nơi sân lúa mùa hè và gió cuốn chúng bay đi hết, không còn một dấu vết nào nữa. Còn viên đá đập phá pho tượng đã trở thành núi lớn và lấp đầy càn khôn tất cả
(Ðaniel 22 31-45).

Không có tay nhân loại nào đã tạo nên khí giới hủy diệt mãnh lực sự dữ trên trần gian: Ðó là công việc của một mình Thiên Chúa. Ðến bấy giờ, Nước Thiên Chúa mới nên một sự thực trên cả tạo thành.

Thị kiến thứ hai dẫn đến cả một bầy quái vật: Sư tử có cánh, gấu, báo có cánh và một vật hì hợm hình thù không thể tả được và dữ dằn khủng khiếp. Một lần nữa, các quái vật ám chỉ đến các mãnh lực xấu xa nơi trần gian, nhập thể suốt giòng lịch sử nơi những đế quốc kế tục theo nhau. Các quái vật ấy vươn lên, hung bạo. Nhưng trên chúng, ngự trên ngai có Lão đại thâm niên (Thiên Chúa hằng có), và các thẩm phán an tọa, sổ sách đã mở ra. Các mãnh thú lãnh án phạt và biến mất: Các mãnh lực sự dữ bị bại, không phải nhờ sức lực người phàm, nhưng là chính bởi sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa hằng sống. Nhưng khi ấy một nhân vật mới xuất hiện: Thì này với mây trời đi đến, có vị giống tợ Con Người (một dung mạo người ta, không còn là thú vật), ngài tiến đến gần nơi Lão đại thâm niên và người ta để ngài đến gần. Và ngài được ban cho quyền thống trị, vinh hiển, vương quyền, và mọi dân, mọi nước, mọi tiếng nói đã làm tôi ngài. Quyền thống trị của ngài, quyền thống trị muôn thuở, không hề qua đi, và vương quyền của ngài sẽ không tiêu diệt (Ðaniel 7 1-14).

Lời giải thích đến sau nói: Con người thể hiện cho dân của chư thánh của Ðấng Tối cao. Thế nghĩa là quyền quản cai cùng tận của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong và nhờ cộng đoàn hoàn toàn suy phục thánh ý Thiên Chúa, tức là dân trung thành của Thiên Chúa.

Nói được là tất cả Cựu Ước kết thúc bằng sự bỏ ngỏ: Chính thị kiến về Con Người đến với mây trời: Trong cần cù vâng giữ Lời Thiên Chúa, trong đau khổ vì trung tín với Lời của Người, Cựu Ước nhắm một điều sẽ đến, nhưng đang được dọn trong hiện tại: Vương quyền của Thiên Chúa đang tiến lại.

Còn Tân Ước bắt đầu với Lời rao giảng của Chúa Kitô: Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng (Mc 1 15).

Và vì thế mà Hội thánh của Chúa Kitô, Ðấng đã xưng mình là Con Người (Mt 26 64), hằng xác tín rằng:
"Nhiệm cục Cựu Ước có được, ấy cốt là để dọn đàng chờ cuộc quang lâm của Chúa Kitô, Ðấng cứu chuộc muôn loài và Nước Cánh chung của Người, bằng lời tiên tri loan báo và bằng các hình bóng nhiều kiểu".
(Hiến chế Lời Thiên Chúa, số 15).


Nguồn: Vietnamese Missionaries in Asia Home Page http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible2/tieudan2.htm