Sunday, December 20, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 21

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN


Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 21 -

Sinh Ysaac
[1] Yavê đã đoái viếng Sara như Người đã phán và Yavê đã làm cho Sara như Người đã nói. [2] Sara đã có thai và sinh con trai cho Abraham vào lúc tuổi già, vào thời Thiên Chúa đã nói, [3] Abraham gọi tên con ông là Ysaac, trẻ đã sinh ra cho ông, đứa con Sara đã sinh hạ cho ông. [4] Và Abraham đã cắt bì cho Ysaac con ông, khi nó sinh được tám ngày, như Thiên Chúa đã truyền cho ông. [5] Abraham thọ được một trăm tuổi, khi Ysaac con ông sinh ra cho ông. [6] Và Sara nói: "Thiên Chúa đã làm cho tôi cười được. Ai ai nghe biết sẽ cười tôi". [7] Và bà nói:
"Nào ai dám báo tin cho Abraham:
Sara sẽ cho con bú!
mà quả tôi đã sinh trai cho tuổi già của ông!"

Ðuổi Hagar và Ismael
[8] Con trẻ lớn lên và thôi bú. Abraham làm cỗ lớn ngày Ysaac thôi bú. [9] Sara thấy đứa con Hagar, người Aicập đã sinh ra cho Abraham, chơi với Ysaac con bà, [10] thì nói với Abraham: "Ông hãy đuổi đứa thị tỳ ấy đi, cùng với con nó, vì con của đứa thị tỳ không có quyền thừa tự làm một với con tôi, với Ysaac". [11] Câu chuyện làm Abraham đau lòng chướng mắt lắm vì cớ con ông. [12] Nhưng Thiên Chúa phán cùng Abraham: "Ngươi đừng đau lòng chướng mắt vì cớ con trẻ và người thị tỳ của ngươi. Mọi điều Sara nói với ngươi, ngươi hãy nghe theo, vì nơi Ysaac ngươi sẽ có dòng giống đội tên ngươi. [13] Còn đứa con của thị tỳ, Ta cũng sẽ cho thành một dân lớn, vì nó cũng là dòng giống ngươi". [14] Sáng ngày, Abraham dậy sớm, lấy bánh và một bì nước mà trao cho Hagar; đoạn ông đặt đứa bé trên vai nàng mà thải nàng đi. Nàng ra đi lang thang trong sa mạc Bơer-Sêba.
[15] Nước đã hết trong bì. Nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, [16] rồi đi ngồi phệt xuống đối diện lại đằng xa chừng một mũi tên bắn, nàng nói: "Miễn sao tôi đừng thấy đứa bé chết". Và nàng ngồi xuống đối diện lại. Và đứa bé òa tiếng khóc.
[17] Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ; và tự trời Thần sứ Thiên Chúa phán gọi Hagar và nói với nàng: "Gì vậy Hagar? Ðừng sợ vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ, ở ngay chỗ nó nằm. [18] Dậy, bồng lấy đứa trẻ, tay ghì chặt lấy nó, vì Ta sẽ cho nó thành một dân lớn". [19] Và Thiên Chúa mở mắt cho nàng thấy giếng nước và nàng đi kín đầy bì nước mà cho đứa bé uống.
[20[ Thiên Chúa đã ở cùng đứa trẻ, nó lớn lên thì đã ở trong sa mạc và thành người thiện xạ cung tên. [21] Nó lưu lại trong sa mạc Pharan. Và mẹ nó đã cưới vợ cho nó, người đất Aicập.

Abraham và Abimêlek
[22] Thuở ấy, Abimêlek và Pikol, tướng binh của ông nói với Abraham rằng: "Có Thiên Chúa ở với ông trong mọi sự ông làm. [23] Vậy bây giờ ông hãy lấy Thiên Chúa thề với tôi đây: là ông sẽ không lường gạt tôi, và tông dòng hậu duệ của tôi, và như chiếu theo tình nghĩa tôi có với ông, ông sẽ xử với tôi cùng với xứ ông tới ngụ nhờ". [24] Và Abraham đã nói: "Tôi xin thề".
[25] Abraham trách Abimêlek nhân vụ giếng nước đã bị bọn tôi tớ của Abimêlek chiếm đoạt. [26] Abimêlek nói: "Tôi không được biết ai làm điều ấy. Và ngay cả ông cũng đã không trình cho tôi hay, và mãi đến hôm nay, chính tôi cũng không hề nghe đến". [27] Abraham đã lấy chiên bò tặng Abimêlek và hai người đã kết ước với nhau. [28] Abraham để riêng ra bảy con chiên cái trong đàn cừu. [29] Abimêlek mới hỏi Abraham: "Gì vậy bảy con chiên cái kia, ông để riêng ra đó?" [30] Và ông đáp: "Là để ông nhận lấy bảy con chiên cái ấy tự tay tôi. Ngõ hầu chúng ta làm tang chứng bảo đảm tôi đã đào cái giếng nầy". [31] Do đó mà người ta đã gọi chỗ ấy là Bơer-Sêba, vì ở đó hai bên đã thề với nhau.
[32] Họ đã kết ước ở Bơer-Sêba. Ðoạn Abimêlek và Pikol tướng binh của ông, chỗi dậy mà trở về đất Philitin. [33] Abraham đã trồng một cây ngự liễu ở Bơer-Sêba và ở đó ông kêu cầu Danh Ðức Yavê Thiên Chúa vạn đại. [34] Abraham đã ngụ ở đất Philitin nhiều ngày.

* * *

Sunday, November 22, 2015

Xây Núi Cúi Để Làm Gì?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Được biết ở một địa phận kia bên nhà, người ta đang có chương trình vĩ đại là xây NÚI CÚI tốn phí đến cả ngàn tỷ đồng VN để lôi cuốn du khách đến viếng thăm và cũng để chào mừng Đức Thánh Cha sẽ sang thăm Việt Nam trong năm 2016 theo sự tưởng tượng vô căn cứ của họ. Chúng ta nghĩ gì về công trình lớn lao mang tính chất phô trương bề ngoài trên đây ?

Trước hết, phải hỏi xem Chúa và Đức Mẹ có hài lòng được tôn thờ và tôn vinh với công trình hoành tráng và tốn phí trên hay không?

Chắc chắn là không, vì Chúa chỉ muốn ngự trị trong tâm hồn của những ai thành tâm yêu mến Người, chứ không vui thích được tôn thờ ở những nơi sang trọng lộng lẫy bề ngoài.Vì thế xưa kia, để trả lời cho một phụ nữ Samaritana kia nói với Chúa rằng "cha ông chúng tôi đã thờ phương Thiên Chúa trên núi này", Chúa Giêsu đã nói như sau:

"Nhưng giờ đã đến- và chính là lúc này đây-
Giờ những người thờ phượng đích thực
Sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật
Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.
" (Ga 4: 23)

Về phần Đức Mẹ -vốn khiêm cung và khó nghèo-, cũng sẽ không vui thích được tôn vinh với công trình quá tốn phí bề ngoài như thế.

Do đó, đáng lẽ phải xây đền thờ, xây NÚI CÚI trong tâm hồn của mọi tín hữu cho Chúa và cho Đức Mẹ ngự trị, chứ không nên xây phô trương bên ngoài cho thiên hạ chiêm ngưỡng để hãnh diện với họ về khả năng tài chính phong phú của mình, trong khi thực tế, giáo dân nhiều người còn túng thiếu, khó khăn với việc sinh sống, nên không có tiền để đóng góp vào công trình quá tốn kém này.

Nh
ư vậy, nếu dùng tiền xây cất quá tốn phí này để trợ giúp cho người nghèo khó thì chắc chắn hữu ích và có lợi hơn cho việc phúc âm hóa, tức mở mang Vương Quốc tình yêu, công bằng, bác ái và thánh thiện của Chúa trong tâm hồn mọi người để đánh tan bóng đen của tội lỗi và sự dữ gây ra bởi "văn hóa sự chết" đang bao phủ thế giới và tâm hồn của quá nhiều người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân, và vô nhân đạo ngày nay. Văn hóa sự chết thể hiện rõ nét ở lối sống tôn thờ tiền bạc của cải vật chất, tôn thờ khoái lạc (hedonism) sa hoa ngạo nghễ và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ của biết bao người xấu số, nạn nhân của mọi bất công xã hội ở khắp nơi,

Như thế, thử hỏi : việc xây công trình lớn lao trên có cần thiết, có làm vinh danh Chúa, Đức Mẹ và có lợi gì cho mục tiêu tái Phúc Âm Hóa -hay ngược lại- là phản Phúc Âm hóa (anti-re evangelization) của giáo hội địa phương ?

Phải nói ngay là không có lợi gì cho mục đích mở mang Nước Chúa vì thực chất sa hoa hào nhoáng bề ngoài không phù hợp với tinh thần nghèo khó mà Giáo Hội phải sống từ trong tâm hồn ra đến hành động bên ngoài để làm chứng tá cho Chúa Kitô, Đấng đã nghèo khó đến nỗi "không có chỗ tựa đầu, trong khi chim trời có tổ, cáo chồn có hang." (Mt 8: 20)

Chúa Kitô đã thực sự khó nghèo, sống lang thang như người vô gia cư (homeless) trong suốt cuộc đời tại thế, từ lúc sinh ra trong hang bò lừa cho đến ngày chết trần trụi trên thập giá chỉ vì muốn cho con người được cứu độ và vui hưởng sự sang giầu đích thực của Nước Trời.

Trong bài giảng trên núi, Chúa đã nói rõ : "phúc cho ai có tình thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ."(Mt 5: 1)

Phải có tinh thần nghèo khó để không làm nô lệ cho tiền của khiến tôn thờ tiền bạc (cult of money) như Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê bình thế giới tục hóa ngày nay. Phải có tinh thần nghèo khó để khinh chê những của cải phù du, nhứng tiện nghi sa hoa và hào nhoáng ở đời này để dễ nâng tâm hồn lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quí giầu sang và hạnh phúc đích thực..

Phải khó nghèo thực sự để không lãng phí tiền bạc vào những việc mà thực chất chỉ là phô trương, hào nhoáng bề ngoài, tuyệt đối không có lợi gì cho việc rao giảng Tin mừng của Chúa Kitô trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công với đa số người dân-trong đó có những giáo dân-còn nghèo nàn, chật vật với cuộc sống bên cạnh môt thiểu số sang giầu tư bản đỏ và đai gia không hề có chút cảm thông bác ái đối với đa số quần chúng nghèo khó, thấp cổ bé miệng, nạn nhân của bất công bóc lột

Trong một hoàn cảnh xã hội như vậy, người Tông Đồ của Chúa Kitô phải đứng về phía những người nghèo khó theo gương Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô đang là chứng nhân hùng hồn, hay đứng về phía những đại gia và tư bản đỏ để thi đua với họ về giầu sang hào nhoáng bề ngoài với những thánh đường lộng lẫy, nhà xứ và tòa giám mục sang trọng -và đặc biệt là xây NÚI CÚI tốn phí hàng ngàn tỷ đồng, một việc làm hoàn toàn không cần thiết để phúc âm hóa môi trường.

Rao giảng Chúa Kitô khó nghèo mà không sống khó nghèo thì sẽ không thuyết phục được ai tin lời mình giảng dạy, nếu không muốn nói là làm trò cười cho họ.

Nói khác đi, thi hành mục đích tái phúc âm hóa thế giới mà Giáo Hội đã kêu gọi từ mấy năm nay có cần đến công trình xây cất quá tốn phí kia hay không, hay đây chỉ là sự phô trương không cần thiết vẻ hào nhoáng bề ngoài, một việc hoàn toàn trái nghịch với tinh thần và đời sống khó nghèo của Chúa Kitô, "Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có," (2 Cr 8: 9)

Nếu Giáo Hội mà không sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô thì sẽ là nhân chứng cho ai ? cho khát vọng được giầu sang phú quí đich thực trên Nước Trời hay cho sự sang giầu phù phiếm chóng qua ở đời này ?

Lại nữa, việc làm trên cũng đi ngược lại đường lối sống và mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã chọn Thánh Phanxicô khó khăn thành Assisi làm khẩu hiệu cho triều đại Giáo Hoàng của mình. Chắc ch
n ngài sẽ không hài lòng về công trình phô trương quá tốn kém trên mà người ta đang phóng đại trí tưởng tượng về việc ngài sẽ sang thăm Việt Nam trong năm 2016 để moi tiền đóng góp của giáo dân trong và ngoài nước.

Và nếu quả thực Đức Thánh Cha sẽ sang thăm Việt Nam như người ta đang tưởng tượng vô căn cứ, thì chắc chắn ngài sẽ không đến chiêm ngưỡng NÚI CÚI mà sẽ đến thăm nhừng tù nhân, những người già yêu không có ai săn sóc và những trẻ mồ côi, khuyết tật, là những thành phần xấu số trong mọi xã hội mà ngài ưu tiên quan tâm đến họ, vì Chúa Kitô nghèo khó đang hiện diện trong những người xấu số này.

Vì thế, là nhân chứng cho Chúa Kitô khó nghèo, và là cộng sự viên đắc lực của Đức Thánh Cha yêu thương người nghèo, sống giản dị khó nghèo, mọi người có trách nhiệm phục vụ cho Dân Chúa trong Giáo Hội phải sống tinh thần khó nghèo của Chúa và gương mẫu phục vụ của Đức đương kim Giáo Hoàng để đời sống và việc làm của minh không mâu thuẫn với lời mình rao giảng cho người khác. Có như vậy thì việc phúc âm hóa, hay tái phúc âm mới có kết quả tốt đẹp mong muốn.

Ngươc lại, cứ lo xây nhà thờ cho sang cho đẹp, xây tượng đài tốn phí để phô trương và là lý do để tiếp tục thi nhau ra nước ngoài xin tiền cho những nhu cầu bất tận, thì mục tiêu phúc âm hóa sẽ không bao giờ mang lại kết quả nào, nếu không muốn nói là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Trống đ
ánh xuôi kèn thổi ngược vì trong khi giáo dân nhiều người còn nghèo túng, giữa một xã hội đầy bất công và tụt hậu thê thảm về luân lý đạo đức, mà Giáo Hội lại kiêu hãnh với những công trình hoành tráng, quá tốn phí như xây NÚI CÚI thì quả thật là một mỉa mai trơ trẽn, một thất bại trông thấy cho mục tiêu phúc âm hóa của giáo hội địa phương.

Ở những quốc gia giầu có như Hoa Kỳ, Canada, ÚC Châu, Pháp, Đức ... người ta cũng không phô trương hào nhoáng với những công trình xây cất đồ sộ. Vậy tại sao ở một nước còn nghèo và lạc hậu như Viêt Nam mà giáo hội địa phương lại ngạo nghễ với công trình xây cất quá tốn phí như vậy, mà thực chất chỉ để phô trương sự phồn thịnh của giáo hội địa phương và phản tác dụng cho mục tiêu phúc âm hóa môi trường để mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin Chúa Kitô dể được cứu rỗi. Đây phải là sứ vụ quan trọng nhất của Giáo Hội ở khắp nơi.

Tại hại hơn nữa, việc xây cất kia còn vô tình đánh bóng cho chế độ cai trị, vô tình biện minh là có tự do tôn giáo, nên mới có công trình lớn lao tốn phí như vậy, trong khi thực tế Giáo Hội vẫn còn tiếp tục bị hạn chế về tự do hành đạo, chưa đáng được tiếp tay tô điểm qua việc làm phô trương hào nhoáng trên đây.

Đáng lẽ, cần thiết hơn cả là xây dựng niềm tin vững chắc trong lòng người tín hữu được trao phó cho mình coi sóc, để giữa một xã hội tụt hậu thê thảm về luân lý đạo đức, họ sẽ là chứng nhân hùng hồn cho Chúa Kitô bằng đời sống công bình, yêu mến sự thiện hảo và khinh chê sự giầu sang hợm hĩnh của những người không có niềm tin Chúa nên chỉ biết vơ vét của cải để làm giầu, bất chấp công bình bác ái và nhân đạo.

Thêm vào đó, một nhu cầu quan trọng không kém là đào tạo hàng giáo sĩ cho có chiều sâu thực sự để họ biết phục vụ hữu hiệu và công bình trong thực tế. Cụ thể, phải sửa đối cách phục vụ để không bất công với người nghèo, không cho họ mang xác người quá cố vào trong nhà thờ, không cho cả thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ tang; trong khi cho xác người giầu được đem vào trong nhà thờ và cho nhiều linh mục được đồng tế trong lễ tang, như có nhân chứng đã kể lại.

Một điều bất công đáng nói nhất là ở các giáo phận bên nhà cho đến nay, các linh mục chánh hay phó xứ không được trả lương tối thiểu đồng đều, nên người coi xứ giầu thì được giầu có theo, coi xứ nghèo thì thiệt thòi hơn.Vì thế, mạnh ai nấy tìm cách ra nước ngoài để xin tiền cho những nhu cầu bất tận.

Thử hỏi giám mục có kiểm soát được các linh mục của mình ra nước ngoài xin tiền hay không, và có biết các linh mục kiếm được bao nhiêu tiền và đem về chi tiêu cho mục đích gì ?

Nếu không biết thì vô tình vẫn làm ngơ cho giáo sĩ, tu sĩ của mình thi nhau ra nước ngoài kiếm tiền bỏ túi hay chi phí cho những mục đích không ai biết.Chúa nói : "anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được." (Lc 16: 13)

Lời Chúa trên đây phải là đèn soi bước đi cho hàng giáo sĩ và tu sĩ cách riêng ở khắp nơi trong Giáo Hội. Không ai có thể dạy cho người khác điều mà chính mình lại không sống để làm gương, và như vậy sẽ trở thành phản chứng thay vì là nhân chứng trung thực cho Chúa Kitô, Người đã nói: "ai có tai nghe thì nghe." (Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8).

Tóm lại, Giáo Hội không thể rao giảng hữu hiệu Chúa Kitô khó nghèo cho ai nếu đời sống và việc làm của mình lại mâu thuẫn với điều mình giảng dậy cho người khác.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Saturday, November 14, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 20

Kinh Thánh Cựu Ước
Sách Khởi Nguyên
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 20 -

Abraham tại Ghêrar

[1] Abraham bỏ đó mà dời xuống miền Nam-sa và lưu lại vào khoảng giữa Cadès và Sur, rồi đến ngụ tại Ghêrar.

[2] Bởi Abraham nói về Sara vợ ông "nàng là em gái tôi" nên Abimêlek, vua Ghêrar sai người đi bắt lấy Sara. [3] Nhưng Thiên Chúa đến với Abimêlek trong mộng ban đêm và phán bảo ông: "Ngươi chết đến nơi rồi, vì cớ người đàn bà ngươi đã cưới lấy: vì nàng đã có chồng". [4] Vả Abimêlek đã không lại gần bà. Ông thưa: "Lạy Chúa, há Người lại giết dân ngay lành nữa sao? [5] lại không phải chính ông ấy đã nói với tôi "nàng là em gái của tôi đó". Và cả nàng nữa, nàng lại không nói: "Anh cả tôi đó" sao? Tôi đã làm thế với một lòng thành, tay trong trắng". [6] Và Thiên Chúa phán bảo ông trong mộng: "Chính Ta, Ta cũng biết ngươi đã làm thế với một lòng thành; và chính Ta cũng đã cầm giữ ngươi khỏi phạm tội nghịch với Ta. Bởi đó Ta đã không cho ngươi đụng đến nàng. [7] Vậy bây giờ ngươi hãy trả lại vợ người ấy: người là tiên tri! người sẽ chuyển cầu cho ngươi và ngươi được sống. Nhược bằng ngươi không trả lại; thì hãy biết rằng: thế nào ngươi cũng phải chết, ngươi và mọi người nhà ngươi". [8] Sáng ngày Abimêlek dậy sớm, gọi tôi tớ hết thảy đến và thuật lại đầu đuôi tự sự cho họ nghe. Và người người đều khiếp sợ quá đỗi. [9] Ðoạn Abimêlek cho gọi Abraham đến mà bảo ông: "Ông đã làm gì thế đối với chúng tôi? Tôi đã có tội gì đối với ông để ông kéo đến trọng tội trên tôi và trên nước của tôi? Ông đã làm cho tôi những điều mà lý ra không được phép làm?" [10] Và Abimêlek nói với Abraham: "Ông muốn nhắm gì khi làm như thế?" [11] Abraham nói: "Vì tôi tự nghĩ: chắc nơi đây chẳng có lòng kính sợ Thiên Chúa; tất họ sẽ giết tôi vì cớ vợ tôi! [12] Vả lại, cũng thật: nàng là em gái tôi, con cùng một cha nhưng khác mẹ, và nàng đã là vợ tôi. [13] Vậy khi Thiên Chúa đem tôi đi phiêu bạt xa nhà cha tôi, thì tôi đã bảo nàng: Nầy là một ơn xin mình làm cho tôi: bất luận nơi nào ta đến, mình hãy xưng gọi tôi: anh tôi đó".

[14] Abimêlek đã lấy chiên bò, tớ trai tớ gái tặng cho Abraham và trả lại ông Sara, vợ ông. [15] Abimêlek nói: "Nầy đất đai của tôi trước mặt mặt ông, ông muốn ở đâu thì tùy thích". [16] Và với Sara ông nói: "Nầy ta trao ngàn nén bạc cho anh của nhà ngươi, cho nhà ngươi, đó là tấm mạng che mắt mọi người thân cận với nhà ngươi, để nhà ngươi được hoàn toàn minh oan". [17] Abraham đã chuyển cầu Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã chữa lành Abimêlek và vợ cùng các nữ tỳ của ông cho họ có thể sinh sản được. [18] Ấy là vì Yavê đã phạt vô hậu lòng dạ phụ nữ cả nhà Abimêlek vì cớ Sara, vợ của Abraham.

* * *

Sunday, November 1, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 19

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 19 -

Sôđôm bị hủy diệt

[1] Hai Thần sứ vào Sôđôm vào lúc chiều tà. Lot thời ngồi ở cổng Sôđôm. Lot vừa thấy thì chỗi dậy nghinh đón họ và bái lạy mặt sát đất. [2] Ông nói: "Thưa các Ngài, xin các Ngài dời vào tệ xá, nghỉ lại đêm nay. Các Ngài rửa chân, rồi sớm mai các Ngài lên đường đi tiếp". Các vị ấy nói: "Không, chúng tôi ngủ đêm ngoài bùng binh". [3] Nhưng ông ra sức nài ép họ thì họ đã đi với ông vào nhà, và ông đã làm tiệc đãi họ. Ông đã làm bánh không men và họ đã dùng bữa.

[4] Họ chưa đi ngủ thì dân thành người Sôđôm đã đến vây quanh nhà, từ trẻ đến già, toàn dân không trừ một ai. [5] Chúng kêu Lot ra mà bảo: "Ðâu rồi, hai người đến nhà anh đêm nay; anh đem họ ra đây cho chúng tôi biết họ chút nào!"

[6] Lot ra bên ngoài cửa vào, và đóng ập cửa lại sau mình. [7] Ông nói: "Tôi van xin anh em. Ðừng làm sự dữ! [8] Nầy đây tôi có hai người con gái, chúng vẫn còn trinh, tôi xin đem chúng ra với các người; các người xử với chúng tùy sở thích các người. Nhưng riêng về những người kia, xin các người đừng làm điều gì, vì họ đã vào ngụ bóng mái nhà tôi". [9] Chúng bảo: "Xéo ra xa!" Và chúng nói: "Anh chàng trơ trọi một mình đến ngụ nhờ mà ại dám làm quan án! Bây giờ chúng ông còn làm dữ với mầy hơn là với chúng nó nữa". Và chúng áp vào người Lot, quá mạnh và tiến lại để đập phá cửa. [10] Những người kia chìa tay ra, kéo Lot vào với họ trong nhà, rồi đóng cửa lại.

[11] Còn bọn người ở trước cửa nhà, thì họ làm cho quáng gà cả lũ từ bé đến lớn, làm chúng không tài nào tìm thấy cửa.

[12] Các người kia bảo Lot: "Ngươi còn có ai đâu đây nữa không? Con trai con gái và tất cả những gì ngươi có trong thành, ngươi hãy đem ra khỏi chốn nầy, [13] vì chúng ta sắp hủy diệt chốn nầy, quả lớn thật tiếng kêu oán phạt chúng trước nhan Yavê, và Yavê đã sai chúng ta đi hủy diệt thành nầy". [14] Lot đi ra nói với những người con rể sắp cưới các con gái ông; ông bảo: "Dậy, ra khỏi chốn nầy vì Yavê sắp hủy diệt thành". Nhưng các chàng rể của ông chỉ coi như thể ông nói diễu.

[15] Khi hừng đông ló hiện, các thần sứ thối thúc Lot mà rằng: "Dậy, đem vợ và hai con gái ngươi sẵn đây đi, kẻo lại quyện đi theo vạ của thành". [16] Ông cứ chần chừ; các người kia mới nắm tay ông, tay vợ và hai con ông, bởi Yavê đã chạnh lòng thương ông. Họ đem ông ra mà bỏ lại ngoài thành. [17] Trong lúc các Ngài đem ông ra ngoài, thì Người bảo: "Hay lo cho thoát mạng mình; đừng có ngó lui; đừng dừng lại đâu trong vùng châu thổ; hãy lo chạy thoát lên núi, kẻo bị quyện theo". [18] Lot nói với họ: "Xin đừng thế, thưa Ngài. [19] Nầy tôi tớ của ngài đã được nghĩa trước nhan Ngài, và Ngài đã tỏ lượng nhân hải hà đối với tôi cho tôi được tính mạng an toàn. Nhưng tôi không thể chạy thoát lên núi được, sợ rằng tai ương cứ bám theo tôi và tôi chết mất. [20] Nầy, cái thành kia kìa gần bên dễ chạy trốn vào đó được, và nó có to tát gì? xin để cho tôi thoát thân đến đó. Nó có to tát gì đâu? Ðể cho tính mạng tôi sống được".

[21] Và Người nói với ông: "Nầy Ta còn nể nang ngươi cả về điều ấy nữa, là sẽ không vùi đi thành ngươi nói đó. [22] Mau mau thoát thân vào đó, vì Ta không thể làm gì trước khi ngươi đến đó". Vì vậy người ta đã gọi tên thành là Soar.

[23] Mặt trời vừa mọc, Lot vừa vào Soar, [24] thì Yavê mưa xuống Sôđôm và Gomora, diêm sinh và lửa tự nơi Yavê từ trời cao xuống. [25] Người đã vùi đi các thành ấy và tất cả vùng châu thổ cùng dân cư các thành hết thảy, đến cả mầm giống đất đai. [26] Vợ của Lot ngó lại đằng sau thì đã biến thành tượng muối.

[27] Sáng mai Abraham dậy sớm ra chỗ ông đã đứng hầu Yavê. [28] Ông nhìn về phía Sôđôm và Gomara, và trên cả mặt vùng châu thổ, và ông thấy: thì này một làn khói bốc lên như khói lò đúc. [29] Khi Thiên Chúa hủy diệt các thành vùng châu thổ thì Người đã nhớ đến Abraham, và Người đã cho Lot khỏi trời lật đất vùi! trng khi các thành nơi Lot đã ở bì vùi đi.

Nguồn gốc dân Moab và Ammôn

[30] Lot bỏ Soar đi lên ở trên núi với hai người con gái của ông, vì ông sợ không dám ở lại Soar. Ông ở trong một cái hang hàm một với hai người con gái của ông. [31] Cô cả mới nói với cô út: "Cha ta già rồi; trong xứ lại không có đàn ông nào đến với ta theo lối thường trong cả thiên hạ. [32] Nào! ta chuốc rượu cho cha ta uống và ta ngủ với ngài; như thế là sẽ lưu tồn dòng giống do bởi cha ta! [33] Và họ đã chuốc rượu cho cha họ uống trong chính đêm ấy, và cô cả đến ngủ với cha mà ông không hay biết lúc nào cô nằm lúc nào cô dậy. [34] Hôm sau cô cả nói với cô út: "Này đêm qua chị đã ngủ với cha. ta hãy chuốc rượu cha uống cả đêm nay nữa, rồi em vào ngủ với ngài. Như thế ta sẽ lưu tồn dòng giống do bởi cha ta".

[35] Và họ đã chuốc rượu cho cha họ uống cả đêm ấy nữa, và cô út chỗi dậy đi ngủ với ông mà ông không hay biết lúc nào cô nằm, lúc nào cô dậy. [36] Hai con gái của Lot đã có thai với cha họ. [37] Cô cả đã sinh hạ một trai và cô gọi tên nó là Moab. Ðó là ông tổ của dân Moab còn đến ngày nay. [38] Cô út cũng đã sinh hạ một trai và cô gọi tên nó là Ben-Ammi. Ðó là ông tổ dân Ammôn còn đến ngày nay.

* * *

Sunday, October 25, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 18

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 18 -

Yavê hiện ra tại Mamrê

[1] Yavê đã hiện ra cho ông nơi Cây Sồi Mamrê. Abraham ngồi nơi cửa lều vào lúc nóng nhất ban ngày. [2] Ông ngước mắt lên, thì này: có ba người đứng bên ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón tiếp họ. Ông vái sâu sát đất, [3] và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được nghĩa trước mặt Ngài xin Ngài đừng rời xa tôi tớ của Ngài [4] để người nhà đem lại chút nước, các Ngài rửa chân, đoạn ngã mình bóng cây, [5] để tôi đi kiếm miếng bánh: hầu các Ngài được chắc dạ trước khi rời bước, bởi chưng các Ngài đã dọc đường ngang qua nơi tôi tớ của các Ngài". Họ mới nói: "Cứ làm như ông nói".

[6] Abraham lật đật vào lều, gặp Sara và bảo: "Mau! lấy ba đấu bột, bột tinh ấy, nhồi đi, và làm ít bánh tráng". [7] Ðoạn ông chạy ra đàn bò và bắt một con bê non béo tốt, và ông trao cho tên đầy tớ và nó vội vã làm thịt.

[8] Và ông đem nhũ men, sữa, và con bê, ông đã nấu dọn, mà đặt trước mặt họ. Còn ông, ông đứng bên hầu khách, dưới bóng cây và họ dùng bữa.

[9] Và họ nói với ông: "Sara, vợ ông đâu?" Ông thưa: "Nhà tôi ở trong lều". [10] Và người bảo: "Ta sẽ trở lại đây với ngươi: thì mãn nguyệt khai hoa rồi. Lúc đó Sara vợ ngươi đã có con trai". Vả Sara để ý nghe nơi cửa lều ở đằng sau người. [11] Abraham và Sara đã già nua tuổi tác cả, và Sara không còn điều bình thường xảy đến cho đàn bà. [12] Sara mới cười trong bụng, tự nghĩ: "Mình đã xác xơ ra rồi còn chi cái chuyện tòm tem cho mình, vả ông nhà mình già rồi". [13] Yavê phán với Abraham: "Tại sao Sara lại cười, tự nghĩ: Hẳn tôi không còn sinh nở được ư? khi đã già thế này? [14] Thì nào có gì quá ư huyền diệu đối với Yavê. Ðến kỳ hẹn Ta sẽ trở lại đây với ngươi (thì mãn nguyệt khai hoa rồi), Sara sẽ có con trai". [15] Sara chối phắt, mà rằng: "Tôi có cười đâu! vì bà phát sợ. Nhưng người nói: "Không! Ngươi đã cười!"

Lời cầu bầu của Abraham

[16] Các người ấy chỗi dậy đi khỏi đó, (đến nơi) trông thấy Sôđôm. Có Abraham cùng đi để tiễn chân họ. [17] Và Yavê đã phán: "Lẽ nào Ta giấu với Abraham điều Ta sắp làm? [18] Quả Abraham sẽ trở nên một dân lớn lao hùng cường. Nhờ nó mọi dân tộc trên trần sẽ được chúc phúc. [19] Vì Ta đã biết đến nó, ngõ hầu nó truyền cho con cái, và gia đình nó sau nó nắm giữ đường lối Yavê mà thi hành công minh chính trực, ngõ hầu Yavê liễu thành cho Abraham mọi điều Người đã phán về nó". [20] Ðoạn Yavê phán: "Tiếng kêu oán phạt Sôđôm và Gomora rân lên! Và tội của chúng nặng lắm! [21] Ta phải xuống xem có thật chúng làm [tất cả] theo như lời kêu oán lên với Ta không. Nếu không thế, Ta sẽ biết?"

[22] Các người ấy rẽ khỏi đó mà đi về phía Sôđôm, nhưng Yavê còn đứng lại trước mặt Abraham. [23] Abraham tiến lại gần và nói: "Phải chăng Người sẽ tiêu diệt kẻ lành làm một với người dữ? [24] Có lẽ trong thành có được năm mươi người lành. Phải chăng Người cũng tiêu diệt đi; và không dung thứ cho nơi ấy vì năm mươi người lành ấy có được trong đó. [25] Thật là gở lạ đối với Người, xin đừng làm thế: bắt kẻ lành phải chết với kẻ dữ, khiến người lành kẻ dữ hòa đồng như nhau; thật là gở lạ đối với Người: Há Ðấng phán xét tất cả gian trần lại không theo đường công lý?"

[26] Và Yavê đã phán: "Nếu Ta tìm được ở Sôđôm năm mươi người lành trong thành, vì chúng, Ta sẽ dung thứ cho cả chốn đó".

[27] Abraham thưa lại và nói: "Nầy tôi quả đường đột thưa với Chúa tôi, một kẻ chỉ là tro bụi như tôi. [28] Có lẽ số năm mươi người lành ấy chỉ thiếu có năm: Há chăng chỉ vì năm người ấy Người cũng hủy diệt cả thành?" Và Người phán: "Ta sẽ không hủy diệt, nếu Ta tìm ra được ở đó bốn mươi lăm người kia". [29] Ông còn nói tiếp với Người và thưa: "Có lẽ tìm ra được ở đó bốn mươi người?" Người phán: "Ta sẽ không thi hành vì bốn mươi người ấy".

[30] Ông thưa: "Xin Chúa tôi đừng chấp, để cho tôi nói: Có lẽ tìm ra được ở đó ba mươi người?" Người phán: "Ta sẽ không thi hành, nếu Ta tìm được ba mươi người". [31] Ông thưa: "Nầy tôi quả đường đột thưa với Chúa tôi: Có lẽ tìm ra được ở đó hai mươi người?" Người phán: "Ta sẽ không hủy diệt vì hai mươi người ấy!" [32] Ông thưa: "Xin Chúa tôi đừng nổi giận để cho tôi nói một lần nầy nữa: Có lẽ tìm ra được ở đó mười người?" Người phán: "Ta sẽ không hủy diệt vì mười người ấy!"

[33] Và Yavê nói xong với Abraham thì đã ra đi; và Abraham đã lui về.

* * *

Saturday, October 10, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 17

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 17 -

Giao ước và cắt bì

[1] Khi Abram được chín mươi tuổi, thì Yavê đã hiện ra cho ông và phán với ông:
"Ta là El-Shadday, hãy bước đi trước mặt Ta và ở cho trọn lành. [2] Ta sẽ ban giao ước giữa Ta và ngươi, Ta sẽ cho ngươi sinh sôi đông lắm, đông lắm".

[3] (Và) Abram phục mình sấp mặt xuống.

Và Thiên Chúa phán bảo ông rằng: "[4] Phần Ta, nầy giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ là cha của hằng hà sa số dân tộc. [5] Tên ngươi không còn là Abram, tên ngươi phải là Abraham, vì Ta cho ngươi trở thành cha của hằng hà sa số dân tộc. [6] Ta sẽ làm ngươi nảy nở sinh sôi đông lắm, đông lắm; Ta sẽ cho phát xuất từ ngươi dân dân và vua chúa. [7] Ta sẽ lập giao ước giữa Ta và ngươi, và dòng giống ngươi sau ngươi qua các thế hệ, làm giao ước vạn đại, ngõ hầu Ta là Thiên Chúa của ngươi và của dòng giống ngươi sau ngươi. [8] Và Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi  sau ngươi đất ngươi nương ngụ, toàn cõi đất Canaan, làm sở hữu vạn đại, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng".

[9] (Và) Thiên Chúa phán với Abraham: "Còn ngươi, ngươi sẽ giữ lấy giao ước của Ta, ngươi và dòng giống ngươi sau ngươi, qua các thế hệ. [10] Nầy là giao ước các ngươi sẽ giữ lấy, giữa Ta và các ngươi, và dòng giống ngươi sau ngươi: mọi nam nhân trong các ngươi đều sẽ chịu cắt bì. [11] Các ngươi sẽ cắt bì xác thịt nơi da qui đầu của các ngươi; điều ấy sẽ là dấu giao ước giữa Ta và các ngươi. [12] Sinh được tám ngày, mọi nam nhi trong các ngươi đều sẽ chịu cắt bì, mãi qua các thế hệ, kẻ sinh ra trong nhà và người tậu được bằng tiền bạc nơi mọi kẻ tha bang không thuộc dòng giống ngươi. [13] Nhất nhất phải chịu cắt bì kẻ sinh ra trong nhà và người tậu được bằng tiền bạc. Như thế giao ước của Ta nơi thân xác các ngươi sẽ thành giao ước muôn đời. [14] Kẻ tục tử, nam nhân không chịu cắt bì xác thịt nơi da qui đầu, sinh mạng ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi hàng thân thuộc của nó: nó đã thủ tiêu giao ước của Ta".

[15] Thiên Chúa phán bảo Abraham: "Saray, vợ ngươi, ngươi sẽ không còn gọi tên nó là Saray nữa, song tên nó sẽ là Sara. [16] Ta sẽ chúc lành cho nó, do bởi nó Ta sẽ ban cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc lành cho nó, do bởi nó Ta sẽ ban cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc lành cho Sara và nó sẽ thành những dân tộc, sẽ phát xuất tự nó những vì vua của các nước". [17] Và Abraham phục mình sấp mặt xuống và cười; ông nói trong lòng: "Há người trăm tuổi lại có con? Há Sara chín mươi tuổi đầu lại còn sinh nở?" [18] Và Abraham thưa với Thiên Chúa: "Ước gì Ismael được sống trước mặt Người thôi!" [19] Thiên Chúa phán: "Không đâu! Chính Sara, vợ ngươi, sẽ sinh cho ngươi một con trai và ngươi sẽ gọi tên nó là Ysaac. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó, giao ước muôn đời, cho dòng giống nó sau nó. [20] Về Ismael, Ta đã nhậm lời ngươi: nầy Ta sẽ chúc lành cho nó, Ta sẽ cho nó nảy nở, Ta sẽ cho nó sinh sôi đông lắm, đông lắm, nó sẽ sinh mười hai ông hoàng và Ta sẽ cho nó thành một dân lớn. [21] Song giao ước của Ta, Ta sẽ lập cho Ysaac, Sara sẽ sinh hạ cho ngươi vào thời này năm sau". [22] (Phán) xong với ông, Thiên Chúa từ biệt Abraham mà siêu thăng.

[23] (Vậy) Abraham đã đem Ismael con ông và mọi kẻ sinh ra trong nhà ông và mọi người ông đã đem tiền bạc tậu được, mọi nam nhân trong người nhà của Abraham, và ông đã cắt bì xác thịt, da qui đầu của họ, chính trong ngày ấy chiếu theo điều Thiên Chúa đã phán bảo ông.

[24] Abraham thọ chín mươi chín tuổi khi ông chịu cắt bì xác thịt da qui đầu ông. [25] Ismael con ông lên mười ba tuổi, khi chịu cắt bì xác thịt da qui đầu nó. [26] Chính trong ngày ấy Abraham đã chịu cắt bì, và Ismael con ông. [27] Và mọi nam nhân nhà ông, kẻ sinh trong nhà và người tậu được bằng tiền bạc nơi người tha bang, đều chịu cắt bì làm một với ông.

* * *

Friday, October 9, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 16

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 16 -

Hagar

[1] Saray, vợ của Abram, không sinh con cho ông được. Bà có một thị tỳ, người Aicập tên gọi là Hagar. [2] Saray nói với Abram: "Nầy, xin ông coi: Yavê đã cấm tôi sinh đẻ. Xin ông hãy ăn ở với con thị tỳ của tôi. Họa chăng nhờ nó, tôi cũng được mụn con". (Và) Abram đã nghe theo lời Saray.

[3] Mãn mười năm Abram lập cư ở đất Canaan, Saray, vợ của Abram, đã đem Hagar, người Aicập, thị tỳ của bà, mà dâng nàng làm thiếp cho Abram chồng bà. [4] Ông đã ăn ở với Hagar, và nàng đã có thai. Khi nàng thấy mình có thai, thì bà chủ của nàng chẳng còn ra cái thá gì trước mặt nàng nữa. [5] Saray mới nói với Abram: "Việc ông đó, cái nhục tôi chịu đây! Tôi đã đặt con thị tỳ của tôi vào lòng ông. Mà khi nó thấy nó có thai, thì tôi chẳng còn ra cái thá gì trước mặt nó. Xin Yavê phân xử giữa tôi và ông". [6] Abram nói với Saray: "Nầy, con thị tỳ của bà dưới tay bà, bà cứ xử với nó, tùy nghi trước mắt bà", Saray đã hành hạ nàng; và nàng đã bỏ bà mà trốn đi.

[7] Thần sứ của Yavê bắt gặp nàng bên suối nước kia trong sa mạc, suối trên đường đi Sur. [8] Người phán: "Hagar, thị tỳ của Saray, từ đâu ngươi đến và ngươi sẽ đi đâu?" Nàng thưa: "Tôi trốn tránh mặt Saray, bà chủ của tôi!" [9] Thần sứ của Yavê phán với nàng: "Về với bà chủ ngươi đi, và lo phục tùng dưới tay bà". [10] Thần sứ của Yavê phán với nàng: "Ta sẽ tăng gia đông đảo dòng giống ngươi, đến đỗi không ai tài nào đếm nổi, vì số quá lớn".

[11] Thần sứ của Yavê phán với nàng: "Nầy, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con, ngươi sẽ gọi tên nó là Ismael vì Yavê đã nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi.

[12] Nó sẽ là thứ người, giống lừa hoang,
Tay nó chống lại mọi người. Tay mọi người chống lại nó.
Nó lập cư đối diện với các anh nó".

[13] Và nàng gọi Danh Yavê Ðấng phán với nàng: "Người là El-Roy", vì nàng nói: "Phải chăng nơi đây tôi đã thấy dấu Đấng đã thấy tôi".

[14] Bởi thế mà người ta gọi giếng là "giếng Lakhay-Rôy". Và nầy nó ở giữa Cađes và Bêred.

[15] Và Hagar đã sinh cho Abram một con trai và Abram gọi tên con ông, đứa con hagar đã sinh ra cho ông, là Ismael. [16] Abram sống được tám mươi sáu tuổi, khi Hagar sinh ra Ismael cho Abram.
 
* * *

Sunday, October 4, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 15

Kinh Thánh Cựu Ước
Sách Khởi Nguyên

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 15 -

Các lời hứa và giao ước

[1] Sau các điều ấy, Lời của Yavê đến với Abram trong thị kiến mà rằng:
"Ðừng sợ, Abram, Ta là khiên mộc cho ngươi; phần thưởng ngươi sẽ bội hậu".

[2] Abram thưa: "Lạy Chúa Yavê, Người sẽ ban gì cho tôi, trong khi tôi vô hậu ra đi, (còn kẻ thừa tự gia đình tôi lại là Eliêzer, người ở Damar)". [3] Abram thưa: "Nầy Người không ban dòng giống nào cho tôi, và nầy một gia nhân của tôi sẽ kế thừa tôi". [4] Và nầy lời Yavê (phán) với ông rằng: "Nó sẽ không kế thừa ngươi đâu, nhưng kẻ sẽ phát xuất từ lòng dạ ngươi sẽ kế thừa ngươi". [5] Và Người đã dẫn ông ra ngoài trời và phán: "Hãy nhìn lên trời, và hãy đếm tinh sao, nếu ngươi có tài đếm được chúng". Ðoạn Người phán bảo ông: "Dòng giống ngươi sẽ như thế!" [6] Và Abram đã tin vào Yavê và sự ấy Người đã kể cho ông như sự công chính.

[7] Người đã phán với ông: "Ta, Yavê, Ta đã đem ngươi ra khỏi Ur của dân Kanđê, để ban cho ngươi đất này làm cơ nghiệp". [8] Và ông thưa: "Lạy Chúa Yavê, làm sao tôi biết là tôi sẽ được nó làm cơ nghiệp?" [9] Và Người phán với ông: "Hãy đem lại cho Ta một con bê cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy và một bồ câu non". [10] Abram đã đem lại cho Người hết các vật ấy; đoạn ông xẻ ra chính giữa và đặt mỗi phần đối chiếu với phần kia, còn chim thì ông không xẻ làm hai.

[11] Có những mãnh cầm sà xuống trên thây vật đã hạ sát, nhưng Abram đuổi chúng đi.

[12] Khi mặt trời gần lặn, một giấc tê mê xâm nhập cả mình Abram, và nầy một sự kinh hãi, tối tăm quá thể xâm nhập cả mình ông. [13] (Thiên Chúa) phán bảo Abram: "Ngươi hãy biết tỏ điều nầy: dòng giống ngươi sẽ ngụ nhờ nơi thửa đất không thuộc về chúng. Người ta sẽ bắt chúng làm tôi và hành hạ chúng bốn trăm năm. [14] Những dân mà chúng phải làm tôi, Ta sẽ xét xử, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều của cải. [15] Còn ngươi, ngươi sẽ qui hồi tiên tổ bình an và được mai táng lúc tuổi già phúc hậu. [16] Ðời thứ tư, chúng sẽ về lại chốn nầy vì cho tới đó, tội ác của Amori chưa đầy".

[17] Và khi mặt trời đã lặn và tối tăm bao trùm thì nầy một lò lửa nghi ngút khói và một đuốc cháy ngang qua giữa những mảng thịt hy sinh. [18] Ngày hôm ấy Yavê đã kết ước với Abram, rằng:
"Cho dòng giống ngươi, Ta sẽ ban thửa đất nầy từ sông Aicập cho đến Sông Cả, sông Phơrat, [19] xứ của dân Qêni, dân Qênizzi, dân Qađmôni, [20] dân Hittit, dân Phơrizi, dân Rơphaim, [21] dân Amori, dân Canaan, dân Ghirgasi, dân Yơnusi".

* * *

Saturday, October 3, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 14

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 14 -

Giao chinh giữa các vua

[1] Vào ngày đời Amraphel, vua Sinêar; Ariok, vua Ellasar, Kơdor-Laomer, vua Êlam; và Tiđơal vua các bộ lạc. [2] Họ đã giao chinh với Bêra vua Sôđôm, Birsa vua Gomora, Sinab vua Admah, Sêmêber vua Sơboyim, và vua (thành) Bêla tức là Soar.

[3] Các ông nầy liên hiệp với nhau trong thung lũng Siđđim (tức là Biển Muối). [4] Trong vòng mười hai năm, họ đã thần phục Kơdor-Laomer, nhưng đến năm thứ mười ba họ đã khởi loạn. [5] Và năm thứ mười bốn, Kơdor-Laomer đã đến làm một với các vua phe ông. Họ đã đánh bại dân Rơphaim tại Astarot-Qarnayim, dân Zuzim tại Ham, dân Emim tại cánh đồng Qiriataim. [6] Dân Khori tại rặng núi Sêir, cho đến El-Pharan giáp giới sa mạc. [7] Ðoạn họ quay trở lại mà đến suối "Phán quyết" (tức là Cadès). Họ đã đánh phá tất cả vùng dân Amalek và cả dân Amori lập cư ở Khaxaxon-Tamar. [8] Bấy giờ vua Sođôm, vua Gomora, vua Admah, vua Sơboyim và vua Bêla (tức là Xoar) xuất chinh, và đã nghinh chiến (với họ) trong thung lũng Siđđim, [9] tức là với Kơdor-Laomer, vua Elam, Tiđơal vua các bộ lạc, Amraphel vua Simơar, Ariok vua Ellasar, bốn vua chống lại năm ông. [10] Thung lũng Siđđim nhan nhản những hố lịch thanh. Trong khi bỏ chạy, vua Sôđôm và (vua) Gomora đã ngã vào đó, còn tàn binh thì trốn lên núi. [11] Phe thắng đã đoạt lấy của cải hết thảy của Sôđôm, Gomora và tất cả lương thực, rồi đi mất. [12] Khi đi họ cũng bắt Lot và của cải của ông - (Lot) con người em của Abram và đã lập cư ở Sôđôm.

[13] Một người thoát được đã tới báo sự tình cho Abram, người Hipri. Ông này ở tại (Cây Sồi) của Mamrê, người Amori, anh của Eskol và Aner, họ là đồng minh của Abram. [14] Abram vừa nghe anh em mình bị bắt làm tù binh, thì liền chiêu tập binh tráng gia thuộc của ông, ba trăm mười tám người, và nhào đuổi theo cho đến Ðan. [15] Ông chia quân xông vào địch ban đêm, ông và bộ hạ của ông, và đã đánh đuổi họ cho đến Khôbah, Bắc Ðama. [16] Ông đã thu hồi được của cải tất cả, ông cũng đã đem về được Lot, bà con của ông với của cải hết thảy, các phụ nữ và dân chúng.

Melkisêđek

[17] Khi Abram đã đánh bại Kơdor-Laomer và các vua liên minh mà trở về thì vua Sôđôm ra đón ông tại thung lũng Savê (tức là thung lũng nhà Vua). [18] Melkisêđek, vua Salem đem đến bánh rượu; ông nầy là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. [19] Ông đã chúc lành cho Abram và nói: "Chúc lành hãy đổ xuống cho Abram do Thiên Chúa Tối Cao Ðấng sinh thành trời đất.

[20] Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao Ðấng đã phó địch thù (của ông) trong tay ông". Abram đã cống cho ông thập phân về hết mọi sự.

[21] Vua Sôđôm nói với Abram: "Nhân mạng xin ông cho tôi lại, còn của cải xin ông giữ lấy". [22] Và Abram đã nói với vua Sôđôm: "Tôi giương tay trước Thiên Chúa Tối Cao Ðấng sinh thành Trời Ðất, [23] một mẩu chỉ cho đến một quai dép tôi sẽ không lấy một tí gì trong các vật thuộc về ông, để ông đừng nói: "Ta đã làm giàu cho Abram". [24] Không tí gì phần tôi, trừ ra những gì binh tráng đã ăn phần những người đã đi với tôi, Aner, Eskol và Mamrê: Họ hãy lấy phần của họ".

* * *

Friday, October 2, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 13

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN


Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 13 -

Abraham và Lot lìa biệt nhau

[1] Abram bỏ Aicập đi lên, ông và vợ ông cùng tất cả những gì ông có, và cả Lot với ông, theo hướng Namsa. [2] Vả Abram đã nên giàu có quá đỗi về súc vật, bạc với vàng. [3] Trên đường di thực ông đã đi từ Namsa lên đến Bêthel, đến nơi ông đã dựng lều trước kia, ở giữa Bêthel và (thành) Hai. [4] Chính chỗ có tế đàn ông đã dựng lúc đầu, và ở đó Abram đã kêu cầu Danh Ðức Yavê.

[5] Lot, đi với Abram, cũng có chiên bò và lều trại. [6] Ðất hẹp không cho phép họ ở chung với nhau, vì của cải họ nhiều, nên họ không thể ở chung với nhau. [7] Xảy có cuộc tranh giành giữa những người thợ chăn súc vật của Abram và những thợ chăn súc vật của Lot. (Bấy giờ dân Canaan và dân Phơrizi đang ở trong xứ). [8] Abram nói với Lot: "Làm sao đừng có chuyện tranh chấp giữa ta và cháu, giữa nhóm mục đồng của ta và nhóm mục đồng của cháu, vì chúng ta là hàng bà con anh em mà! [9] Há xứ nầy lại không phải mở ra trước mặt cháu cả sao? Cháu hãy lìa bác mà đi đi! Nếu cháu về bên trái, bác sẽ rẽ bên phải, nếu cháu đi bên phải, bác sẽ rẽ bên trái".

[10] Lot ngước mắt lên và thấy tất cả vùng châu thổ Yorđan khắp vùng đều có nước nôi sung túc.
- Trước khi Yavê phá hủy Sôđôm và Gomara, - thì đó như thể cánh vườn của Yavê, như đất Aicập, mãi thấu Soar. [11] Và Lot đã chọn lấy cho mình tất cả vùng châu thổ Yorđan, và Lot đã trẩy đi về hướng Ðông, và họ đã lìa biệt nhau mỗi người một hướng. [12] Abram lập cư ở đất Canaan, còn Lot lập cư trong các thành vùng châu thổ và đem lều trại đến tận Sôđôm. [13] Mà người Sôđôm là hạng tội ác đáo để trước mặt Yavê.

[14] (Và) Yavê phán bảo Abram sau khi Lot đã lìa biệt ông: "Hãy ngước mắt lên và từ chỗ ngươi đứng, hãy nhìn tứ phía: Bắc, Nam, Ðông, Ðoài. [15] Vì toàn xứ ngươi thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi cho đến vạn đại. [16] Ta sẽ làm cho dòng giống ngươi đông như bụi đất, khiến cho ai đếm được bụi đất, thì cũng tính sổ được dòng giống ngươi. [17] Hãy chỗi dậy rảo khắp xứ chiều ngang chiều dọc, vì Ta sẽ ban đất ấy cho ngươi". [18] Và Abram đã đem lều trại đến lập cư ở Cây Sồi Mamrê, ở tại Hêbrôn. Ông đã xây tế đàn kính Yavê.

* * *

Thursday, October 1, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 12

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 12 -

II. Sự Tích Abraham

Abraham được kêu gọi

[1] Yavê phán với Abram: "Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. [2] Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành.

"[3] Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành ngươi, ai mà nói động đến, Ta sẽ chúc dữ. Mọi thị tộc trên trần sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau".

[4] Và Abram đã đi theo lời Yavê đã phán bảo ông và Lot đã đi với ông. Abram thọ được bảy mươi lăm tuổi lúc ông ra đi khỏi Kharan. [5] Abram đã đem theo vợ là Saray và Lot, con của em ông và tất cả gia tư ông đã làm ra và lũ gia nhân ông đã kiếm được ở Kharan, họ đã ra đi đến xứ Canaan, và họ đã đi vào xứ Canaan.

[6] Abram đã ngang qua xứ mà đến thánh địa Sikem, đến cây sồi Morê. Bấy giờ trong xứ có dân Canaan. [7] Và Yavê đã hiện ra cho Abram và phán bảo ông: "Ta sẽ ban xứ này cho dòng giống ngươi". Và ông đã xây tế đàn ở đó kính Yavê, Ðấng đã hiện ra cho ông. [8] Bỏ đó, ông qua ngọn núi phía Ðông thì có (thành) Hai. Và ông đã xây tế đàn kính Yavê mà kêu cầu Danh Ðức Yavê. [9] Hết dựng lều rồi lại dỡ lều Abram lần mò hướng đến Namsa.

Abraham tại Aicập

[10] Xảy đến trong xứ có đói kém, và Abram xuống Aicập để ngụ nhờ, vì cơn đói đè nặng cả xứ. [11] Khi ông sắp bước chân vào Aicập, ông bảo Saray vợ ông: "Này, tôi biết mà, mình là một gái có nhan sắc. [12] Dân Aicập vừa nhìn thấy mình tất chúng sẽ nói: "Vợ hắn đó", và chúng sẽ giết tôi, mà để mình sống. [13] Tôi xin mình cứ nói mình là em gái của tôi, mong tôi cũng được phúc vì mình, và tính mạng tôi được (sống) nhờ mình". [14] Và thực thế, Abram vừa vào Aicập thì dân Aicập nhìn thấy bà là một phụ nữ xinh đẹp tuyệt vời. [15] Tướng lãnh của Pharaô nhìn thấy thì khen bà trước mặt Pharaô: bà đã bị đem vào đền Pharaô.

[16] Và vì bà, ông đã thi ân giáng phúc cho Abram: Abram được chiên, bò, lừa, tớ trai tớ gái, lừa cái với lạc đà. [17] Yavê đã phạt Pharaô và gia đình ông phải những tai ương lớn, vì cớ Saray, vợ của Anram. [18] Và Pharaô đã cho gọi Abram đến mà bảo: "Sao ngươi làm thế đối với ta? tại sao ngươi không tỏ thật ta hay nàng là vợ ngươi? [19] Tại sao ngươi lại nói: "Nàng là em gái của tôi", khiến ta đã trót lấy nàng làm vợ? Thôi! nầy là vợ ngươi. Ngươi lấy mà đi đi". 20 Ðoạn Pharaô đã truyền người hộ tống ông: họ đã đưa ông ra làm một với vợ ông và tất cả những gì ông có.

* * *

Tuesday, September 29, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 11

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 11 -

Tháp Babel


[1] Khắp nơi trên đất cùng một ngôn ngữ, từng tiếng như nhau. [2] Xảy ra là trong khi họ thiên cư bên phương Ðông thì họ đã tìm thấy một cánh đồng ở đất Sinêar; và họ đã đậu cư ở đó. [3] Họ nói với nhau: "Nào! Ta hãy đúc gạch và nung lò!" Gạch, họ lấy làm đá, và lịch thanh làm hồ. [4] Ðoạn họ nói: "Nào! Ta xây thành ta ở, và xây tháp, ngọn sao cho thấu trời! Ta hãy gây danh cho ta! ngõ hầu ta khỏi bị phân tán ra khắp mặt đất". [5] Yavê đi xuống để xem thành và và cây tháp, con cái loài người đang xây. [6] Và Yavê nói: "Này hết thảy chúng là một dân duy nhất, một ngôn ngữ như nhau. Chúng đã bắt đầu làm thế, thì từ nay còn có mưu định nào mà chúng lại không có thể làm nổi. [7] Nào! Ta xuống! Ở đó, Ta hãy làm cho ngôn ngữ chúng ra ba la ba láp, sao cho chúng không hiểu được ngôn ngữ của nhau". [8] Và tự đó Yavê đã phân tán họ ra khắp mặt đất. Và họ đã thôi xây thành. [9] Bởi thế mà thiên hạ gọi tên thành là Babel vì ở đó Yavê đã làm cho ra ba la ba láp ngôn ngữ của khắp nơi trên đất. Và chính tự đó Yavê đã phân tán họ ra khắp mặt đất.

Các Tổ phụ sau lụt Hồng thủy

[10] Ðây là dòng dõi của Sem: Sem sống được một trăm năm thì đã sinh ra Arpakshad, hai năm sau Hồng thủy. [11] Sau khi sinh ra Arpakshad, Sem đã sống năm trăm năm và ông đã sinh con trai con gái.

[12] Arpakshad sống được ba mươi lăm năm, thì sinh ra Selakh. [13] Sau khi sinh ra Selakh, Arparkshad đã sống bốn trăm lẻ ba năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[14] Selakh sống được ba mươi năm, thì đã sinh Eber. [15] Sau khi sinh ra Eber, Selakh đã sống bốn trăm lẻ ba năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[16] Eber sống được ba mươi mốn năm thì đã sinh ra Pêleg. [17] Sau khi sinh ra Pêleg, Eber đã sống bốn trăm ba mươi năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[18] Pêleg sống được ba mươi năm thì đã sinh ra Rơu. [19] Sau khi sinh ra Rơu, Pêleg đã sống hai trăm lẻ chín năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[20] Rơu sống được ba mươi hai năm thì đã sinh ra Sôrug. [21] Sau khi sinh ra Sơrug, Rơu đã sống hai trăm lẻ bảy năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[22] Sơrug sống được ba mươi năm thì đã sinh ra Nakhor. [23] Sau khi sinh ra Nakhor, Sơrug đã sống hai trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[24] Nakhor sống được hai mươi chín năm thì đã sinh ra Terakh. [25] Sau khi sinh ra Terakh, Nakhor đã sống một trăm mười chín năm. Ông đã sinh con trai con gái.

[26] Terakh sống được bảy mươi năm thì đã sinh ra Abram, Nakhor, và Kharan.

Dòng dõi của Têrakh

[27] Ðây là dòng dõi của Têrakh: Têrakh sinh ra Abram, Nakhor, và Kharan. Kharan sinh ra Lot. [28] Kharan đã chết trước mặt Têrakh, cha mình, ở nơi sinh quán, Ur của dân Kanđê. [29] Abram và Nakhor đã cưới vợ: tên người vợ của Abram là Saray, và tên người vợ của Nakhor là Milkah, con của Kharan: (Kharan) là cha của Milkah và Yiskah. [30] Vả Saray là người son sẻ: bà không có con. [31] Têrakh đã đem Abram con ông và Lot cháu ông và là con của Kharan, cùng với Saray, con dâu của ông, vợ của Abram, con ông. Ông đã đem họ ra khỏi Ur của dân Kanđê để đến đất Canaan. Họ đến Haran và đã đậu cư ở đó. [32] Ngày đời của Têrakh là hai trăm lẻ năm năm. Ðoạn ông chết tại Haran.

* * *

Sunday, September 27, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 10

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 10 -

Các dân tộc

[1] Ðây là dòng dõi con cái Noê, Sem, Kham và Yaphet. Ðã sinh ra cho họ con cái sau Hồng thủy. [2] Con cái của Yaphet: Gomer, Magog, Maday, Yavan, Tubal, Môsek, Tiras. [3] Con cái của Gomer: Askênaz, Riphat, Togarmah. [4] Con cái của Yavan: Elisa, Tarsis, Kittim, Dodamin. [5] Phát xuất từ họ, những người đã di thực đến các đảo của các nước. Ðó là con cái của Yaphet, trong các miền của họ mỗi người tùy theo tiếng nói, tùy theo thị tộc, trong các nước của họ.

[6] Con cái của Kham: Kush, Misrain, Put, Canaan. [7] Con cái của Kush: Xêba, Havila, Sabta, Raamah, Sabtơea. Con cái của Raamah: Sêba, Ðơđan.

[8] Kush đã sinh ra Nemrod. Ông là người thứ nhất đã nên hùng cường trên đất. [9] Ông đã là tay thiện xạ trước nhan Yavê. Bởi thế ngạn ngữ nói rằng: "Như Nemrod, tay thiện xạ trước nhan Yavê". [10] Khởi điểm nước ông là Babel, Erek, Akkad, Kalmet, trong đất Sinêar. [11] Từ nơi đất ấy, ông xuất chinh chiếm Assur, và xây Ninivê, và các công trường của thành, và Kalah, [12] rồi Rêsen giữa Ninivê và Kalah (Ðó là một thành lớn).

[13] Misrain đã sinh ra các dân xứ: Lud, Anem, Lơhab, Naphtuk, [14] Patros, Kaslukh và Kaptor, tự đó phát xuất ra dân Philitin.

[15] Canaan đã sinh ra Siđôn là con đầu lòng, rồi Khet. [16] Dân Yơbusi, Amori, Ghirgasi, [17] dân Khiuvi, Arqi, Sini, [18] dân Arvađi, Sơmari, Khamati. Rồi các thị tộc Canaan đã phân tán ra. [19] lãnh thổ của dân Canaan gồm từ Siđôn, mãi thấu Ghêfar, Gaza và mãi thấu Sođôm, Gomora, Admah và Sơboyim cho đến Lêsa. [20] Ðó là con cái của Kham tùy theo thị tộc và tiếng nói của họ trong các miền các nước của họ.

[21] Cả Sem nữa, cũng đã có con cái sinh ra, ông là cha tất cả những cn cái của Eber và là anh cả của Yaphet.

[22] Con cái của Sem: Elam, Assur, Arpakshad, Lud, Aram. [23] Con cái của Aram: Us, Khul, Gheter, Mash.

[24] Arpakshad đã sinh ra Selakh. Selakh đã sinh ra Eber. [25] Eber có hai người con: tên người thứ nhất là Peleg, vì vào thời ông, đất đã bị phân chia, và tên em là Yoqtan. [26] Yoqtan đã sinh ra Almođađ, Seleph, Khaxarmavet, Yarakh, [27] Hadoram, Uzal, Ðiqlah, [28] Obal, Abimael, Sêba, [29] Ophir, Havila, Yobab. Ðó là những con của Yoqtan. [30] Nơi ở của họ, từ Mêsa, mãi thấu Sephar là vùng núi phía Ðông.

[31] Ðó là con cái của Sem tùy theo thị tộc và tiếng nói của họ, trong các miền các nước của họ. [32] Và đó là các thị tộc của con cái Noê, tùy theo dòng dõi của họ, trong các nước của họ. Phát xuất từ họ những dân đã di thực trên đất sau Hồng thủy.

* * *

Thursday, September 24, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 09

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 09
-

Trật tự mới

[1] Và Thiên Chúa đã chúc lành cho Noê và các con ông. Người phán với chúng: "Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất. [2] Oai các ngươi sẽ làm cho mãnh thú trên đất, mọi chim trời, mọi vật bò dưới đất và mọi cá trong biển phải hãi sợ kinh khiếp. Chúng đều được phó nộp trong tay các người. [3] Mọi vật máy động sinh sống sẽ là thức ăn của các ngươi. Một thể như cỏ cây và nộn thảo xanh tươi, Ta ban tất cả cho các ngươi. [4] Song le các ngươi không được ăn thịt với mạng nó, máu huyết nó. [5] Song le, Ta sẽ đòi máu huyết tính mạng các ngươi, Ta sẽ đòi mạng sống nơi các loài thú vật. Ta sẽ đòi mạng sống nơi tay ngươi, nơi tay của anh em ngươi.

[6] Ai đổ máu người, do người, máu nó sẽ phải đổ ra. Vì theo hình ảnh Thiên Chúa, (Thiên Chúa) đã làm ra con người.

[7] Vậy các ngươi, hãy sinh sôi nảy nở và lan tràn ra trên đất, mà thống trị nó".

[8] Thiên Chúa đã phán bảo Noê và các con ông ở bên ông mà rằng: "[9] Phần Ta, này Ta lập giao ước của Ta với các ngươi và dòng giống các ngươi đến sau các ngươi, [10] cùng với mọi sinh mạng sống với các ngươi, với chim chóc, thú vật, dã thú với các ngươi, tóm lại mọi vật đã tự tàu đi ra, mọi sinh vật trên đất. [11] Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: Mọi loài có xác sẽ không còn bị nước Hồng thủy tiêu trừ. Sẽ không còn có Hồng thủy đến hủy diệt cõi đất".

[12] Và Thiên Chúa phán: "Này là dấu giao ước Ta đặt giữa Ta và các ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở với các ngươi, đời đời mãi mãi: [13] Vòng cung của Ta, Ta đặt trên mây và nó sẽ là dấu giao ước giữa Ta và cõi đất. [14] Sẽ xảy ra là: khi Ta vun mây trên đất và vòng cung ló hiện trên mây. [15] Ta sẽ nhớ đến giao ước giữa Ta và các ngươi và tất cả chúng sinh, mọi loài có xác và nước sẽ không còn dâng lên thành Hồng thủy mà hủy diệt mọi loài có xác. [16] Vòng cung mà có trên mây thời Ta sẽ nhìn mà nhớ đến giao ước vĩnh tồn giữa Thiên Chúa và tất cả chúng sinh, mọi loài có xác ở trên cõi đất".

[17] Và Thiên Chúa đã phán với Noê: "Ðó là dấu giao ước Ta đã lập giữa ta và mọi laòi có xác trên đất".

3- Từ Lụt Hồng Thủy Tới Abraham


Noê và các con

[18] Các người con của Noê đã ra khỏi tàu là Sem, Kham và Yaphet. Kham là Cha của Canaan. 19 Ba người ấy là Con của Noê và dân cư tất cả trần gian đã (phát nguồn) tự họ.

[20] Noê là nông dân đã khởi xướng việc trồng nho. [21] Ông đã uống rượu nho và đâm say, và đã cởi truồng ra trong lều. [22] Kham, cha của Canaan, thấy chỗ kín của cha thì ra ngoài kháo láo với hai anh nó. [23] Nhưng Sem và Yaphet cầm lấy áo choàng, và cả hai nâng áo đằng vai họ rồi đi giật lùi mà đến phủ trên chỗ kín của cha họ, mặt quay nghịch lại, và không nhìn thấy chỗ kín của cha họ. [24] Khi Noê tỉnh say mà biết được điều con út của ông đã làm đối với ông, [25] thì ông đã nói: "Canaan thật đồ chúc dữ! nó hãy làm mạt nô suốt đời cho anh em nó".

[26] Rồi ông nói: "Chúc tụng Yavê Thiên Chúa của Sem, và Canaan hãy là nô lệ của nó.

[27] Xin Thiên Chúa phát gia Yaphet, nó hãy ngụ trong lều trại của Sem và Canaan hãy là nô lệ của nó.

[28] Sau Hồng thủy Noê đã sống ba trăm năm mươi năm. [29] Tất cả ngày đời của Noê là chín trăm năm mươi năm. Ðoạn ông chết.

* * *

Saturday, September 19, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 08

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 08 -

Nước rút

[1] Và Thiên Chúa đã nhớ đến Noê, và mọi mãnh thú, mọi thú vật ở trong chiếc tàu làm một với ông. Và Thiên Chúa cho gió thổi ngang trên đất và nước đã dặt xuống. [2] Bấy giờ các mạch nước uông mang và tò vò các tầng trời đóng lại, và trời đã tạnh mưa. [3] Và nước đã rút dần dần khỏi mặt đất. Mãn một trăm năm mươi ngày thì nước đã giảm. [4] Tháng bảy ngày bảy tháng ấy tàu đã đậu lại trên núi non (xứ) Asarat. [5] Nước cứ giảm dần cho đến tháng mười. Vào tháng mười, ngày mồng một tháng ấy, các đỉnh núi đã ló hiện.

[6] Mãn bốn mươi ngày, Noê mở cửa sổ ông đã làm. [7] Và ông thả ra con quạ. Nó bay ra lượn đi lượn lại cho đến khi nước đã cạn trên đất. [8] Và từ trong, ông thả bồ câu để xem nước đã chảy bớt khỏi mặt đất chưa. [9] Nhưng con bồ câu không tìm ra đâu đậu chân được thì trở về lại với ông trong tàu, vì nước vẫn còn trên mặt toàn cõi đất. Ông đã giương tay, đón lấy nó mà đem vào với mình trong tàu. [10] Ông còn đợi bảy ngày nữa mới lại thả bồ câu ra khỏi tàu. [11] Con bồ câu trở về lại với ông, lúc xế chiều. Và này nơi mỏ nó có cành lá ôliu mới ngắt. Vậy Noê biết là nước đã chảy bớt đi khỏi đất. [12] Ông còn đợi thêm bảy ngày khác nữa, rồi thả bồ câu ra. Nhưng nó đã không trở về lại với ông nữa.

[13] Năm sáu trăm lẻ một (đời Noê) tháng giêng ngày mồng một tháng ấy, nước đã khô cạn trên đất. Noê lật mái tàu để ngó, thì này mặt đất đã khô cạn. [14] Tháng hai ngày hai mươi bảy tháng ấy đất đã khô ráo.

Ra khỏi tàu

[15] Thiên Chúa phán bảo Noê rằng: "[16] Hãy ra khỏi tàu, ngươi, vợ nguơi, con cái ngươi và vợ của chúng làm một với ngươi. [17] Mọi thú vật ở với ngươi, thuộc mọi loài xác thịt: Chim chóc, thú vật, mọi loài côn trùng bò trên đất: ngươi cũng cho chúng ra làm một với ngươi, để chúng nhung nhúc đầy trên đất và sinh sôi nảy nở trên đất". [18] Và Noê đã ra cùng con cái ông, vợ ông và vợ con cái ông làm một với ông. [19] Mọi mãnh thú, mọi thứ côn trùng, mọi thứ chim chóc, mọi giống bò trên đất, theo tông giống của chúng, đều đã ra khỏi tàu.

[20] Và Noê đã xây một tế đàn dâng kính Yavê. Ông đã lấy trong các thú vật thanh sạch và trong các thứ chim thanh sạch mà làm lễ thượng hiến trên tế đàn. [21] Và Yavê đã ngửi hinh hương trấn nộ. Và Yavê đã nói trong lòng: "Ta sẽ không còn rủa độc đất đai lần nữa vì cớ loài người. Vì ngay từ thiếu thời lòng chúng chỉ nặn ra sự dữ. Ta sẽ không còn đả phá chúng sinh lần nữa như Ta đã làm.

[22] Bao lâu đất được còn ngày, tất sẽ không ngơi gieo gặt, lạnh nóng, hạ đông, đêm ngày".

* * *

Thursday, September 17, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 07

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 07 -


Vào tàu

1 Yavê phán với Noê: "Hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta thấy ngươi là người đức nghĩa trước nhan Ta nơi thế hệ này. 2 Trong các thú vật thanh sạch, ngươi hãy lấy với ngươi bảy con, mỗi loại, đực và cái, còn trong các thú vật không thanh sạch (ngươi hãy lấy) hai con đực và cái 3 (và cả chim trời nữa, bảy con mỗi loại, trống và mái), để độ sinh giống má trên cả mặt đất. 4 Vì bảy ngày nữa là Ta sẽ cho mưa xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, và Ta sẽ xóa khỏi mặt đất mọi sinh vật Ta đã làm ra". 5 Và Noê đã thi hành mọi điều Yavê đã truyền cho ông. 6 Noê chẵn sáu trăm tuổi thì Hồng thủy, nước lụt xảy đến trên đất.

7 Và để tránh cơn nước Hồng thủy, Noê đã vào tàu làm một với con cái ông, vợ ông và vợ con cái ông. 8 (Thuộc các thú vật thanh sạch và các thú vật không thanh sạch, và thuộc các chim chóc và thuộc mọi vật bò trên đất, 9 thì cứ từng hai con, đực và cái, đến với Noê mà vào tàu theo như ThiênChúa đã truyền cho Noê). 10 Và sau bảy ngày, nước Hồng thủy đã xảy đến trên đất.

11 Năm sáu trăm đời Noê, tháng hai ngày mười bảy trong tháng, trong ngày ấy, hết các mạch nước của uông mang vĩ đại bật tung và các cửa tò vò tầng trời toang mở. 12 Và mưa đổ xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.

13 Nhằm chính ngày ấy, Noê và Sem, Kham, Yaphet, các con của Noê, vợ Noê, và ba người vợ của các con ông đã vào tàu. 14 Cùng với họ mọi mãnh thú theo loại và mọi thú vật theo loại, mọi côn trùng bò lê trên đất theo loại, mọi thứ chim chóc theo loại, các thú cầm thú có cánh. 15 Chúng đến với Noê mà vào tàu mỗi thứ hai con thuộc mọi xác thịt có sinh khí, 16 và đi vào có một đực một cái thuộc mọi loại xác thịt, chúng vào chiếu theo điều Thiên Chúa đã truyền cho Noê.

Và Yavê đã đóng cửa lại đằng sau ông.

Lụt

17 Và đã xảy đến lụt Hồng thủy trên đất bốn mươi ngày. Nước đã trương đại và nâng tàu mà cất bổng lên khỏi đất. 18 Con nước dâng lên và trương đại lớn lắm trên đất và tàu đã trôi trên mặt nước. 19 Con nước dâng lên lớn lắm, lớn lắm trên đất. Tất cả những núi cao nhất dưới mọi phương trời đều bị phủ lút cả. 20 Nước đã dâng cao mười lăm xích bên trên khiến núi non đều bị phủ lút. 21 Và mọi loài xác thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú, và mọi vật lúc nhúc trên đất, và mọi người hết thảy. 22 Mọi loài có hơi thở nơi mũi, tức là tất cả các vật trên cạn đều chết hết. 23 (Yavê) đã xóa sạch trên đất hết thảy, từ người cho đến súc vật, côn trùng, và chim trời, chúng đều bị xóa sạch khỏi đất và còn lại chỉ có một mình Noê và những gì ở trong tàu làm một với ông. 24 Và nước đã dâng lên trên đất một trăm năm mươi ngày.

* * *

Wednesday, September 16, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 06

Kinh Thánh Cựu Ước
Sách Khởi Nguyên
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 06 -


Con trai Thiên Chúa và con gái loài người

1 Xảy ra là khi loài người đã bắt đầu nên đông đảo trên mặt đất và chúng có con gái sinh ra, 2 thì con cái của Thiên Chúa thấy là con cái loài người, chúng xinh đẹp thật. Và hễ họ ưng ý ai thì họ lấy làm vợ. 3 Và Yavê đã phán: "Khí thiêng của Ta sẽ không có lưu tồn mãi mãi nơi loài người, bởi chúng là xác thịt. Ngày đời của chúng sẽ là một trăm hai mươi năm".

4 Vào những ngày ấy (và còn cả về sau nữa), có những người siêu nhân trên đất, khi những con cái Thiên Chúa đi lại với con gái loài người. Và con gái loài người sinh con cho họ. Ðó là những tay anh hào, những người lừng danh đã có tự ngàn xưa.

2. Lụt Hồng Thủy

Loài người sa đọa

5 Yavê đã thấy sự dữ của loài người đã ra nhiều trên đất, suy tính chúng có nặn ra được gì thì chỉ là độc dữ suốt ngày. 6 Và Yavê hối tiếc vì đã làm ra con người trên đất, và Người đã phải đau phiền trong lòng Người. 7 Và Yavê đã phán: "Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất, loài người Ta đã dựng nên, từ loài người cho đến súc vật, côn trùng và chim trời, vì Ta hối tiếc đã làm ra chúng". 8 Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt Yavê.

9 Ðây là tông tích của Noê: Noê là người đức nghĩa, vẹn toàn giữa những người đồng thời. Noê hằng đi đứng rập với Thiên Chúa. 10 Noê sinh được ba con trai: Sem, Kham, và Yaphet. 11 Ðất đã ra bại hoại trước nhan Thiên Chúa. Ðất đã đầy dẫy những độc ác. 12 Thiên Chúa nhìn xuống đất và này nó đã ra bại họai vì mọi xác phàm đã hủy hoại đường lối của chúng trên đất.

13 Thiên Chúa phán với Noê: "Giờ khánh tận của mọi xác phàm đã đến, Ta đã quyết định [trước nhan Ta]. Bởi chưng vì cớ chúng, đất đã đầy dẫy những độc ác. Vậy này, Ta sẽ hủy diệt chúng khỏi cõi đất. 14 Ngươi hãy làm lấy một cái tàu bằng gỗ bách, ngươi sẽ làm tàu ấy có buồng đoạn lấy lịch thanh trám lại cả trong lẫn ngoài. 15 Ngươi sẽ làm thế này: dài ba trăm xích, rộng năm mươi xích, cao ba mươi xích. 16 Ngươi sẽ làm cho tàu một cái mui và cho kênh mui cao lên một xích, và bên mạn thì trổ một cửa. Ngươi sẽ sắp đặt làm tầng dưới, tầng nhì và tầng thứ ba.

"17 Phần Ta, này Ta cho Hồng thủy đến trên cõi đất, mà hủy hoại mọi xác thịt có sinh khí dưới gầm trời. Mọi sự trên đất sẽ biến thành thây ma. 18 Nhưng với ngươi, Ta lập giao ước của Ta. Và ngươi sẽ vào tàu, ngươi và con cái ngươi, vợ ngươi và vợ con cái ngươi làm một với ngươi. 19 Trong mọi sinh vật, mọi xác thịt, ngươi sẽ đem vào tàu mỗi loại hai con, để độ sinh cho chúng, làm một với ngươi. Chúng sẽ là một con đực, một con cái. 20 Thuộc chim chóc theo loại, thuộc thú vật theo loại, thuộc mọi côn trùng trên đất theo loại, phải có mỗi thứ hai con đến với ngươi, hầu được độ sinh. 21 Còn ngươi, hãy lấy mọi thức ăn được, hãy tích trữ lấy với ngươi. Ðó là lương thực của ngươi và của chúng nó". 22 Và Noê đã làm mọi sự: như Thiên Chúa truyền cho ông làm sao, ông đã làm y như vậy.

* * *

Tuesday, September 15, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 05

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 05 -

Các tổ phụ trước lụt Hồng thủy

1 Ðây là phổ hệ của Ađam: Ngày Thiên Chúa dựng người thì theo mường tượng của Thiên Chúa, Người đã làm ra nó. 2 Là nam là nữ Người đã dựng ra chúng. Và Người đã chúc lành cho chúng và gọi tên chung là "Người", ngày chúng đã được dựng ra.

3 Ađam sống được một trăm ba mươi năm thì đã sinh con theo mường tượng của ông, như hình ảnh ông. Và ông đã gọi tên nó là Set. 4 Ngày đời Ađam, sau khi sinh ra Set, là tám trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 5 Tất cả ngày đời Ađam đã sống là chính trăm ba mươi năm. Ðoạn ông chết.

6 Set sống được một trăm lẻ năm năm thì đã sinh ra Enosh. 7 Sau khi sinh ra Enosh, Set đã sống tám trăm lẻ bảy năm, ông đã sinh con trai con gái. 8 Tất cả ngày đời của Set là chín trăm mười hai năm. Ðoạn ông chết.

9 Enosh sống được chín mươi năm thì sinh ra Qênan. 10 Sau khi sinh ra Qênan, Enosh đã sống tám trăm mười lăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 11 Tất cả ngày đời của Enosh là chín trăm lẻ năm năm. Ðoạn ông chết.

12 Qênan sống được bảy mươi năm thì đã sinh ra Mahalalel. 13 Sau khi sinh ra Mahalalel, Qênan đã sống tám trăm bốn mươi năm. Ông đã sinh con trai con gái. 14 Tất cả ngày đời của Qênan là chín trăm mười năm. Ðoạn ông chết.

15 Mahalalel sống được sáu mươi lăm năm thì đã sinh ra Yaređ. 16 Sau khi sinh ra Yaređ, Mahalalel đã sống tám trăm ba mươi năm. Ông đã sinh con trai con gái. 17 Tất cả ngày đời của Mahalalel là tám trăm chín mươi lăm năm. Ðoạn ông chết.

18 Yaređ sống được một trăm sáu mươi hai năm, thì đã sinh ra Hênóc. 19 Sau khi sinh ra Hênóc, Yaređ đã sống tám trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 20 Tất cả ngày đời của Yaređ là chín trăm sáu mươi hai năm. Ðoạn ông chết.

21 Hênóc sống được sáu mươi lăm năm, thì đã sinh ra Mathusalem. 22 Hênóc đã đi với Thiên Chúa. Sau khi sinh ra Mathusalem, Hênóc đã sống ba trăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 23 Tất cả ngày đời của Hênóc là ba trăm năm. 24 Và Hênóc đã đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa vì Thiên Chúa đã cất ông đi mất.

25 Mathusalem sống được một trăm tám mươi bảy năm thì đã sinh ra Lamek. 26 Sau khi sinh ra Lamek, Mathusalem đã sống bảy trăm tám mươi hai năm. Ông đã sinh con trai con gái. 27 Tất cả ngày đời của Mathusalem là chín trăm sáu mươi chín năm. Ðoạn ông chết.

28 Lamek sống được một trăm tám mươi hai năm thì đã sinh con. 29 Ông đã gọi tên nó là Noê, mà rằng: "Chính nó sẽ cho ta được an ủi thoát khỏi việc vàn của ta, thoát khỏi đau khổ tay ta làm đất đai mà Yavê đã chúc dữ". 30 Sau khi sinh ra Noê, Lamek đã sống năm trăm chín mươi lăm năm. Ông đã sinh con trai con gái. 31 Tất cả ngày đời của Lamek là bảy trăm bảy mươi bảy năm. Ðoạn ông chết. 32 Noê được năm trăm tuổi thì sinh ra Sem, Kham và Yaphet.


* * * 


Monday, September 14, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 04

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 04 -

Cain và Abel

1 Và người đã biết Eva, vợ ông, và bà đã có thai và sinh hạ Cain. Bà nói: "Tôi đã tậu được một đàn ông cùng với Yavê". 2 Bà còn sinh ra em nó là Abel. Và Abel làm nghề chăn cừu, Cain thì cày ruộng. 3 Xảy ra là sau nhiều ngày, Cain dâng trái trăng đồng ruộng làm lễ vật cho Yavê. 4 Còn Abel, phần mình thì dâng chiên cừu đầu lứa cùng với mỡ béo của chúng. Và Yavê đã ngó đến Abel và lễ vật của nó. 5 Còn Cain và lễ vật của nó Người không ngó đến, Cain tức tối lắm. Nó sầm mặt xuống. 6 Bấy giờ Yavê phán với Cain: "Hà cớ chi ngươi phải tức tối? Hà cớ chi ngươi phải sầm mặt xuống? 7 Há không phải là, nếu ngươi ở tốt lành, ngửng lên; nếu ngươi không tốt lành, tội mai phục, trên ngươi sự hăm he của nó, và ngươi sẽ khống chế nó". 8 Cain nói với Abel em nó: "Ta hãy ra đồng đi!" Và xảy ra là khi chúng ở ngoài đồng, thì Cain đã xông vào Abel em nó mà giết đi.

9 Yavê đã phán với Cain: "Abel, em ngươi đâu?" Nó thưa: "Tôi không biết! Tôi có phải là người canh giữ em tôi ư?" 10 Người phán: "Ngươi đã làm gì? Tiếng máu của em ngươi từ đất kêu oán lên Ta. 11 Bây giờ, ngươi hãy là đồ chúc dữ và bật khỏi mặt đất màu mỡ đã há miệng hớp lấy từ tay ngươi máu em ngươi. 12 Ngươi có canh tác đất đai, đất đai sẽ chẳng còn cho ngươi sức lực của nó. Ngươi sẽ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất".

13 Cain thưa với Yavê: "Tội vạ tôi quá lớn làm sao mang nổi. 14 Này hôm nay Người đuổi tôi khỏi mặt đất màu mỗ và khuất khỏi nhan Người, nên kẻ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất. Và có ai bắt gặp tôi tất sẽ giết tôi". 15 Yavê phán với nó: "Không thế đâu! Ai giết Cain, Cain sẽ được báo thù gấp bảy!" Và Yavê đã đánh dấu trên Cain để đừng ai hạ thủ nó bất cứ ai gặp nó. 16 Cain đã ra khỏi nhan Yavê và cư ngụ đất Nôđ phía đông Eđen.

Dòng dõi Cain

17 Cain đã biết vợ mình, và bà đã có thai và sinh hạ Hênóc. Và ông đã là người xây thành. Và ông đã gọi thành ấy là Hênóc theo tên con mình. 18 Rồi Hênóc sinh ra một người con là Irad. Irad sinh ra Mơhuyael và Mơhuyael sinh ra Mơtusael, Mơtusael sinh ra Lamek. 19 Lamek đã lấy hai vợ. Tên vợ cả là Ađah và tên vợ thứ là Sillah. 20 Ađah sinh hạ Yabal là cha những người ở lều và nuôi súc vật. 21 Và tên em nó là Yubal cha mọi kẻ chơi đàn địch. 22 Và cả Sillah nữa cũng đã có con là Tubal-Cain, là cha mọi kẻ luyện rèn đồng sắt. Và em gái của Tubal-Cain là Naamah.

23 Lamek nói với hai vợ:

"Adah và Sillah hãy nghe tiếng ta,
thê thiếp Lamek, hãy gióng tai.
Vì bị thương, ta giết một người,
(Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng.

24 Vì Cain có được báo thù gấp bảy,
thì Lamek gấp bảy với bảy mươi".

Set và dòng dõi

25 Và Ađam còn biết vợ lần nữa và bà đã sinh hạ con trai và gọi tên là Set: "Vì Thiên Chúa, bà nói, đã sắp đặt cho tôi dòng dõi khác, thay chỗ Abel, Cain đã giết chết nó". 26 Và cho cả Set nữa, một người con trai đã sinh ra. Và ông gọi tên nó là Enosh. Bấy giờ người ta đã bắt đầu kêu Danh Yavê.

* * *

Sunday, September 13, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 03

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 03 -


Sa ngã


1 Và rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú Yavê Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Hẳn Thiên Chúa đã phán: Các ngươi không được ăn cây nào trong vườn?" 2 Người đàn bà nói với rắn: "Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. 3 Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: Các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết". 4 Và rắn đã nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Quả nhiên Thiên Chúa biết: ngày nào các người ăn nó, mắt các người sẽ mở ra và các người sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu". 6 Và người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quí thực, cái cây ấy, để được tinh khôn. Và bà hái lấy quả mà ăn, bà cũng đã trao cho chồng ở bên bà. Và ông đã ăn. 7 Và mắt cả hai đứa đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng. Chúng đã khâu lá vả làm khố cho mình.

8 Chúng nghe tiếng bước Yavê Thiên Chúa tản bộ trong vườn với gió hiu hiu thổi chiều hôm, và người với vợ đi núp mình khuất mặt Yavê Thiên Chúa giữa những cây trong vườn. 9 Và Yavê Thiên Chúa gọi người mà rằng: "Ngươi ở đâu?" 10 Và người nói: "Tôi nghe tiếng bước chân của Người trong vườn và tôi sợ, vì tôi trần truồng, nên tôi đã núp mình đi". 11 Và Người đã phán: "Ai đã mách cho ngươi là ngươi trần truồng? Họa chăng là ngươi đã ăn cây Ta đã cấm ngươi không được ăn!" 12 Và người thưa: "Người đàn bà mà Người đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây cho tôi, nên tôi đã ăn".

13 Và Yavê Thiên Chúa nói với người đàn bà: "Tại sao ngươi làm thế?"
Và người đàn bà thưa: "Rắn đã phỉnh tôi nên tôi đã ăn".

14 Và Yavê Thiên Chúa phán với con rắn:
"Bởi ngươi đã làm thế,
thì ngươi hãy là đồ chúc dữ,
giữa mọi thú vật, cùng dã thú hết thảy!
Ngươi hãy lê bụng và ăn đất bụi mọi ngày đời ngươi!

15 Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân".

16 Với người đàn bà, Người phán: "Ta sẽ gia tăng đau khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con đẻ cái. Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi".

17 Và với người, Người phán: "Vì ngươi nghe theo tiếng vợ mà ăn cây Ta đã truyền cho ngươi rằng: Ngươi không được ăn, thì đất đai hãy là đồ chúc dữ vì cớ ngươi, có đau khổ ngươi mới nhờ được nó mà ăn mọi ngày đời ngươi.

18 Những gai cùng góc, nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội.

19 Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại bụi đất vì tự đất ngươi được rút ra.
Bởi ngươi là bụi đất ngươi sẽ trở về đất bụi".

20 Người gọi tên vợ mình là "Eva" vì bà là mẹ các sinh linh hết thảy. 21 Và Yavê Thiên Chúa đã làm cho người và vợ nó áo chùng bàng da thú mà mặc cho chúng. 22 Và Yavê Thiên Chúa đã phán: "Này người đã nên như một trong chúng ta để biết được tốt xấu. Bây giờ phải làm sao cho nó đừng giương tay hái cả cây sự sống nữa mà ăn, hầu được sống mãi mãi". 23 Vậy Yavê Thiên Chúa đã xua người khỏi vườn Eden để nó canh tác đất đai tự đó nó đã được rút ra. 24 Và Người đã đuổi người đi. Và ở phía đông vườn Eden Người đặt trấn đóng những Kêrubim và gươm hỏa hào chớp chớp để canh giữ lối cây sự sống.

* * *

Saturday, September 12, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 02

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN
Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 02 -

1 Thế là đã được hoàn thành trời và đất và các cơ ngũ của chúng hết thảy.
2 Và ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người làm. Và ngày thứ bảy Người đã nghỉ mọi công việc Người làm.
3 Và Thiên Chúa đã chúc lành cho ngày thứ bảy và Người đã tác thành nó, vì ngày ấy, Người đã nghỉ mọi công việc Người đã tạo dựng.
4a Thế đó sự tích trời đất, khi chúng được dựng nên.

Thử thách
4b Vào ngày Yavê Thiên Chúa làm ra đất và trời,
5 thì trên đất chưa có bụi cây đồng ruộng nào, chưa có cỏ lả đồng ruộng nào, vì Yavê Thiên Chúa không cho mưa xuống trên đất và chưa có người để canh tác đất đai.
6 Một con nước tự đất dẫy lên và cho cả mắt đất uống đã.
7 Yavê Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người đã hà hơi sống vào mũi nó và người đã thành mạng sống.
8 Và Yavê Thiên Chúa đã trồng vườn cây ở Eden, về phía Ðông và Người đặt trong đó, người đã được nắn ra.
9 Và Yavê Thiên Chúa đã cho từ đất mọc lên mọi thứ cây coi sướng mắt, và ăn ngon lành và cây sự sống ở giữa vườn cùng cây sự biết tốt xấu.
10 Một con sông từ Eden chảy đến để cho vườn uống và từ đó, nó chia làm bốn nhánh.
11 Tên nhánh thứ nhất Phisôn. Nó chảy vòng quanh tất cả đất Havila là nơi có vàng.
12 Vàng đất ấy là thứ vàng tốt. Ở đó cũng có nhũ hương và mã não.
13 Và tên sông thứ hai là Ghikhôn. Nó chảy vòng quanh tất cả đất Kush.
14 Và tên sông thứ ba là Tigra. Nó chảy phía đông Assur và sông thứ tư là: Phơrat,
15 Yavê Thiên Chúa đã đem người đặt trong vườn Eden đề nó canh tác và giữ vườn.
16 Và Yavê Thiên Chúa đã truyền dạy người rằng: "Mọi cây trong vườn, ngươi đều được ăn.
17 Nhưng cây "sự biết tốt xấu" ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi sẽ chết".
18 Yavê Thiên Chúa đã phán: "Không tốt, nếu người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp đương đối với nó".
19 Và Yavê ThiênChúa đã nắn ra từ đất đai mọ thứ dã thú và mọi giống chim trời và Người dẫn đến cho người để xem nó gọi làm sao. Và mọi mạng sống hễ người gọi sao thì tên là vậy.
20 Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần người, người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào đương đối.
21 Và Yavê Thiên Chúa đã giáng xuống trên người một giấc tê mê, và nó đã ngủ thiếp đi. Và Người đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lấp thịt vào.
22 Và trên sườn đã rút tự người, Yavê Thiên Chúa đã xây thành người đàn bà. Ðoạn Người dẫn đến với người.
23 Và nó đã nói:
"Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi.
- Nàng sẽ đội danh là "đàn bà" vì đã được rút tự đàn ông".
24 Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác.
25 Và cả hai đều trần truồng, người và vợ nó, mà chúng không hổ ngươi.

* * *

Friday, September 11, 2015

Sách Khởi Nguyên - Chương 01

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
SÁCH KHỞI NGUYÊN

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

- Chương 01 -

I. KHỞI NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ VÀ LOÀI NGƯỜI


1- Tạo Thành Và Sa Ngã


 Trình thuật tạo thành I

1 Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất.

2 Ðất thời trống không mông quạnh,
và tối tăm trên mặt uông mang
và khí thần là là trên mặt nước.

3 Và Thiên Chúa đã phán: "Hãy có ánh sáng!"
và ánh sáng đã có.

4 Và Thiên Chúa đã thấy rằng ánh sáng thực tốt lành,
và Thiên Chúa đã tách ánh sáng với tối tăm.

5 Và Thiên Chúa đã gọi ánh sáng là Ngày,
và tối tăm thì Người gọi là Ðêm.
Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ nhất.

6 Thiên Chúa đã phán: "Giữa nước hãy có một cái vòm
để nó tách nước với nước". Và đã xảy ra như vậy.

7 Và Thiên Chúa đã làm một cái vòm,
cũng đã tách nước phía dưới vòm với nước bên trên vòm.

8 Và Thiên Chúa đã gọi vòm ấy là Trời.
Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ hai.

9 Và Thiên Chúa đã phán: "Nước dưới vòm hãy tụ lại một chỗ,
để cho khô ráo lộ hiện". Và đã xảy ra như vậy.

10 Và Thiên Chúa đã gọi khô ráo là Ðất,
còn khối nước tụ lại là Biển.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

11 Và Thiên Chúa đã phán: "Ðất hãy xanh um thảo vật xanh tươi,
rau cỏ nảy hạt giống và cây có quả sinh quả theo loại trên đất,
những quả trong có hạt giống". Và đã xảy ra như vậy.

12 Và đất đã mọc thảo vật xanh tươi, rau cỏ nảy hạt giống theo loại,
cây sinh quả trong có hạy giống theo loại.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

13 Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ ba.

14 Và Thiên Chúa đã phán: "Hãy có đèn đóm trên vòm trời
để tách ngày với đêm, và chúng hãy nên
dấu định thời đại hội, định ngày, định năm.

15 Chúng hãy làm đèn đóm nơi vòm trời để soi mặt đất".
Và đã xảy ra như vậy.

16 Và Thiên Chúa đã làm hai cái đèn lớn
- cái đèn lớn hơn để cai ngày, cái đèn nhỏ hơn để cai đêm.
Và thêm có các tinh sao.

17 Và Thiên Chúa đã đặt chúng trên vòm trời để soi mặt đất,

18 Và để cai ngày và đêm cùng để tách sáng với tối.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

19 Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ tư.

20 Và Thiên Chúa đã phán:
"Nước hãy nhung nhúc những sinh vật lúc nhúc,
và chim hãy bay lượn bên trên đất, nơi mặt vòm trời!"
Và đã xảy ra như vậy.

21 Và Thiên Chúa đã dựng nên những thuồng luồng to lớn,
và mọi thứ snh vật vùng vẫy lúc nhúc dưới nước
theo loại chúng và mọi thứ chim có cánh, theo loại chúng.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

22 Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng mà rằng:
"Hãy sinh sôi nảy nở, và hãy nên đầy dẫy trong nước.
Chim chóc hãy sinh sôi trên đất".

23 Và đã có một buổi chiều và đã có một buổi mai.
Ngày thứ năm.

24 Và Thiên Chúa đã phán: "Ðất hãy sản xuất ra sinh vật
theo loại: súc vật, côn trùng, mãnh thú theo loại chúng".
Và đã xảy ra như vậy.

25 Và Thiên Chúa đã làm ra mãnh thú theo loại
và súc vật theo loại, và mọi thuứ côn trùng trên đất cát theo loại.
Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.

26 Và Thiên Chúa đã phán: "Ta hãy làm ra người
theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta.
Chúng hãy trị trên cá biển và chim trời, và trên súc vật và
mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên đất".

27 Và Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình.
Theo hình ảnh của Thiên Chúa Người đã dựng nên nó.
Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng.

28 Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng
và Thiên Chúa đã pah1n bảo chúng:
"Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất.
Và hãy bá chủ nó! hãy tự trị trên cá biển và chim trời
và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất".

29 Và Thiên Chúa đã phán:
"Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ lả sinh hạt giống
có trên cả mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống,
chúng sẽ làm của ăn cho các ngươi.

30 Và cho mọi loài sinh vật trên đất và mọi thứ chim trời
và mọi loài nhung nhúc trên đất, loài có sinh khí nơi mình,
Ta ban các thứ cỏ cây xanh tươi làm của ăn".
Và đã xảy ra như vậy.

31 Và Thiên Chúa đã thấy mọi sự Người đã làm ra:
và này tốt lành quá đỗi. Và đã có một buổi chiều
và đã có một buổi mai.
Ngày thứ sáu.

Monday, September 7, 2015

TIỂU DẪN VÀO NGŨ KINH

KINH THÁNH CỰU ƯỚC
OLD TESTAMENT

Bản dịch Việt Ngữ của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, CSsR. 1976
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

TIỂU DẪN VÀO NGŨ KINH

Tên gọi, phân chia, nội dung

Năm quyển đầu của Cựu Ước làm thành một khối, người Dothái gọi chung là "Torah", tiếng Hipri này thường được dịch là Lề luật. Nhưng đúng nghĩa hơn thì phải dịch là Giáo điều, vì các sách này không chỉ có Luật mà còn gồm nhiều điều khác với mục đích dạy dỗ. Việc phân chia bản văn thành năm quyển, xấp xỉ bằng nhau có thể đã được thực hiện trong các thế kỷ V và VI trước Công nguyên và trong mục đích để dễ sử dụng.

Năm quyển ấy là: Kinh Khởi nguyên (Kn), Kinh Xuất hành (Xh), Kinh Lêvi (Lv), Kinh Dân số (Ds), Kinh Thứ luật (Tl). Kiểu đặt tên này là dịch của bản bằng tiếng HiLạp và Latinh, đã dựa vào nội dung của mỗi quyển mà đặt tên. Người Hipri thì lại khác. Họ lấy những chữ đầu hoặc những chữ quan trọng đầu tiên của bản văn để gọi mỗi quyển.

Năm quyển này kể lại một cách liên tục lịch sử của dân Israel từ khởi thủy vũ trụ cho đến khi Môsê chết.

Kinh Khởi nguyên được chia thành hai phần không đều nhau: Phần đầu, 1-11, trình bày lịch sử về thời sơ khai, có thể được coi như một nhập đề cho lịch sử cứu chuộc kể trong suốt cả bộ Kinh Thánh. Lịch sử ấy lên đến tận nguồn gốc của vũ trụ và bao gồm toàn thể nhân loại. Lịch sử ấy kể lại việc tạo dựng vũ trụ và con người, sự sa ngã buổi đầu với những hậu quả của nó, tình trạng đồi trụy mỗi ngày mỗi gia tăng và đưa đến hình phạt là trận lụt Hồng Thủy. Từ Noê, con người lại sinh sôi nảy nở trên thế giới, nhưng các bản gia phả cứ càng ngày càng thu hẹp để cuối cùng đặt trọng tâm nơi Abraham cha của dân tộc được tuyển lựa.

Từ 12-50: Dung mạo các tổ phụ lớn. Abraham là con người của lòng tin. Lòng thuần phục của ông đã được Thiên Chúa tưởng lệ, hứa ban cho ông một dòng giống đông đảo và cho con cháu ông một Ðất Thánh. (12 1-25 18) Yacob là con người mánh lới, cướp của anh là Esau lời chúc lành của cha là Ysaac, mánh khóe hơn cả cậu là Laban. Nhưng tất cả những sự khôn khéo ấy không đưa tới đâu nếu Thiên Chúa đã không, ngay từ trước khi ông sinh ra, thương ông hơn Esau và lặp lại với ông lời hứa Giao ước đã ban cho Abraham (25 19-36). Ysaac là một dung mạo lu mờ giữa Abraham và Yacob. Cuộc đời của ông chỉ được kể lại đi kèm với cuộc đời của cha và của con. Mười hai người con của Yacob là những ông tổ của 12 chi tộc Israel. Yuse, một trong số 12 người ấy, con người đầy khôn ngoan được nói tới trong hơn mười đoạn của phần cuối sách Khởi nguyên (37-50 trừ 3849). Trình thuật này, khác với trình thuật trên được diễn ra không một lần can thiệp hữu hình của Thiên Chúa và không một mạc khải mới nào, nhưng nó là cả một giáo huấn: Nhân đức của người khôn ngoan được bội thưởng và sự quan phòng của Thiên Chúa biến đổi thành điều hay, điều tốt những lỗi lầm của người đời.

Sách Khởi nguyên là một khối hoàn bị: Lịch sử các tổ phụ. 3 quyển sau lập thành một khối khác, trong đó việc thành lập dân được chọn và việc thiết lập lề luật xã hội và tôn giáo của nó được ghi lại trong khung cảnh của cuộc đời Môsê. Sách Xuất hành bàn tới hai đề tài chính: Việc giải phóng khỏi Aicập 1 1-15 21 và Giao ước tại Sinai 19 1-40 38; hai đề tài được nối với nhau bằng một đề tài phụ, cuộc hành trình trong sa mạc 15 22-18 27. Môsê, sau khi nhận được mạc khải tên Yavê trên núi của Thiên Chúa, đã dẫn đưa người Dothái vừa được giải phóng khỏi cảnh tôi mọi tới đó. Trong một cuộc Thần hiện ngoạn mục, Thiên Chúa kết Giao ước với dân và ban cho dân ấy những Lề luật của Người. Giao ước vừa được thiết lập đã bị vi phạm bởi việc thờ lạy bò vàng. Nhưng Thiên Chúa đã tha thứ và tái lập Giao ước. Một loạt chỉ thị hoạch định việc thờ tự trong sa mạc.

Sách Lêvi, có tính cách hầu như hoàn toàn pháp chế, tạm cắt ngang trình thuật các biến cố. Quyển này gồm có: Một nghi thức về tế lễ 1-7; nghi thức phong chức các tư tế, áp dụng cho Aharôn và các con của ông 8-10, những luật lệ liên quan tới thanh sạch hoặc uế tạp 11-15, kết thúc với nghi thức về ngày đại xá tội 16; "Luật Thánh Thiện" 17-26 bao gồm một lịch trình phụng vụ, 23, và kết thúc với những lời chúc lành và chúc dữ, 26. Chương 27, phần bổ túc định rõ những điều kiện để chuộc người, vật và các thứ khác hiến cho Yavê.

Sách Dân số lấy lại đề tài cuộc hành trình trong sa mạc. Cuộc khởi hành từ Sinai được sửa soạn bởi việc kiểm tra dân chúng, 1-4 và những cuộc tiến dâng, cung hiến Nhà Tạm, 7. Sau việc cử hành lần thứ hai, lễ Pas-char, mọi người rời Núi Thánh, 9-10 và từng chặng một, tới Cades. Tại đây dân đã gặp thất bại trong nỗ lực tiến vào Canaan bằng phía Nam 11-14. Sau cuộc lưu lại tại Cades, mọi người lại lên đường và tới cánh đồng Moab, đối diện với Yêrikhô 20-25. Người Mađian bị đánh bại và các bộ tộc Gađ và Ruben lưu lại ở Bên-kia-sông Yorđan, 31-32. Một bản tóm tắt các chặng đường của Xuất hành 33. Xung quanh các trình thuật này, quy tụ một số những quy luật hoàn bị cho bản luật tại Sinai hoặc chuẩn bị cho việc lập cư tại Canaan 5-6; 8; 15-19; 26-30; 34-36.

Sách Thứ luật có một bố cục đặc biệt; đây là một bản Dân luật và luật Tôn giáo, 12-26 15 được đóng khung trong một diễn từ lớn của Môsê. 5-1126 16-28. Cả khối này lại được đóng khung bởi diễn văn đầu tiên 1-4 và diễn văn thứ ba, 29-30 của Môsê và sau đó những khúc liên quan tới giai đoạn chót của cuộc đời Môsê: Sứ vụ của Yôsua, bài ca và chúc lành của Môsê, cái chết của Môsê, 31-34. Bản Thứ luật lấy lại một phần các Lề luật được ban trong sa mạc. Các diễn văn nhắc lại những biến cố chính của việc Xuất hành, trên núi Sinai và cuộc chinh phục khởi đầu: Và làm nổi bật ý nghĩa tôn giáo của các biến cố ấy, nhấn mạnh tầm mức của Lề luật và thôi thúc dân trung tín.

Soạn tác

Các văn kiện xưa, ngay cả Tân Ước (coi Mc 12 19 Mt 8 4 Cv 3 22 Rm 9 15 10 5 2C 3 15...), đều có nói là: "Môsê viết". Kiểu nói này chỉ là một kiểu nói sẵn có vì ước lệ, không phải một quả quyết xác định tác giả. Vì không thể nào Môsê đã viết hay đọc cho thư ký viết tất cả. Có nhiều dấu cho thấy các luật kê trong đó đã xuất hiện vào nhiều thời buổi khác nhau, và không thể dung hòa được với nhau. Xin đan cử một thí dụ: Luật về bàn thờ và nơi tế tự. Có luật dạy chỉ được xây tế đàn bằng đá nguyên cả tảng, không được đẽo đục. Luật khác dạy làm làm tế đàn bằng đồng. có luật dạy được xây bàn thờ bất cứ ở đâu, luật khác lại dạy chỉ có một nơi tế tự duy nhất (coi Xh 20 24-26 27 1-8 Tl 12 11).

Có lắm điều lặp đi lặp lại. Một thí dụ: Thập giới được nói đến hai lần, dưới hai hình thức chẳng khác nhau bao nhiêu (Xh 20 1-17 và Tl 5 6-22).

Bây giờ khảo sát đến cách hành văn và từ ngữ, ta thấy năm sách này đã kết thành một bởi những đoạn rất khác nhau. (Có thể so sánh truyện Tạo thành trong đoạn Khởi nguyên 1 và Kn 2). Các học giả thường nhận có bốn giòng văn khác nhau, đã được đan kết lại một cách tinh vi.

Bốn giòng văn đó là:

- giòng văn Yavít (vì dùng Danh Yavê ngay từ đầu),

- giòng văn Êlohit (vì thường dùng Danh Thiên Chúa là Elohim),

- giòng văn Thứ luật (tất cả kinh Thứ luật), và

- giòng văn Tư tế.

Cân nhắc tất cả những điều quan sát được trong khi đọc Ngũ kinh, và đối chiếu với lịch sử Israel, người ta rút ra kết luận này: Ngũ kinh là một bộ sưu tập: Luật lệ có, giảng thuyết diễn từ có, trình thuật có - thuộc những giai đoạn lịch sử khác nhau, từ Môsê cho đến thế kỷ thứ 4 hay thứ 5 trước Công nguyên.

Vậy Môsê như một môi giới mạc khải và Giao ước, lập luật về tế tự và pháp luật, là khởi điểm cho một truyền thống có tính cách qui luật, ký thác cho hàng tư tế. Hàng tư tế vun trồng vốn ấy làm cho truyền thống tiến triển về các định chế xã hội và tôn giáo, cùng về đạo đức. Công việc ấy được đúc kết từng đoạn hay từng chương lớn, trong những thư tịch tiêu biểu như Lời Thiên Chúa cho Israel. Sưu tập đầy đủ trong đó các bản văn được đâu lại hình như có liên lạc với sứ mạng của Ezra (Ezra 7 14 25-26, Nêhêmya 8).

Trong các sách ấy, ta thấy hòa lẫn với nhau năm yếu tố văn chương này:

- Một cái nhìn tổng quát trên nhân loại, có lẽ khá bi quan, nhưng cũng nói lên một hy vọng hứa hẹn cho mọi người (cách riêng Khởi nguyên đoạn 1 đến 9).

- Những ký ức lịch sử về việc thiên cư của các Tổ phụ, và việc Israel ra khỏi Aicập. Ðó là hai "hồi" quan trọng nhất cho thiên triệu Israel được làm Dân chọn.

- Những khúc trình thuật dài dòng hơn cho thấy thiên triệu ấy diễn tiến thăng trầm. Những ký ức rất cựu trào đã được nhìn ngang qua một kinh nghiệm tôn giáo kéo dài mười hay mười hai thế kỷ. Chính nơi đây mà ta phải áp dụng quan niệm truyền thống tiến triển mới mong hiểu được nghĩa của thánh sử.

- Rồi đến những sưu tập luật lệ về sinh hoạt công cộng của Israel và về lễ bái tế tự. Các luật này đã lần hồi xuất hiện, từ thời Môsê (lối -1225) cho đến thời Ðền thờ tái lập sau Lưu đày (từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 4).

- Những bài diễn từ hay giảng thuyết khuyên nhủ dân nắm giữ luật lệ và nói lên hậu quả thưởng phạt tùy theo thái độ của Dân đối với Giao ước.

Trình thuật và lịch sử

Mười một chương đầu của sách Khởi nguyên nên được để riêng. Qua việc tả lại nguồn gốc loài người, với một lối hành văn đơn giản và nhiều hình ảnh hợp với tâm não của một dân chưa được mở mang mấy, các chương này đưa ra những chân lý căn bản của kế đồ Cứu chuộc: Thiên Chúa tạo dựng vào buổi đầu thời gian, việc can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa trong sự xuất hiện của con người, nam và nữ, tính cách thống nhất của loài người, tội của tổ tiên tiên khởi, sự sa ngã và những khổ đau, coi như một hình phạt, được lưu truyền.

Các chân lý này đồng thời cũng là các sự kiện, và nếu các chân lý này là những chân lý chắc chắn thì các sự kiện cũng phải là những sự kiện thực mặc dù chúng ta không thể định rõ qua cái lớp áo thần thoại đã được mặc cho các sự kiện ấy, phù hợp với tâm não của thời đại và môi trường.

Lịch sử các tổ phụ là một câu truyện gia đình: Ðó là một chuỗi những ký ức người ta còn giữ được về các tổ tiên Abraham, Ysaac, Yacob và Yuse. Một câu truyện bình dân, chú trọng nhiều vào những giai thoại về cá nhân và không hề có ý muốn cột các trình thuật này vào lịch sử chung. Cuối cùng, đây là một câu truyện tôn giáo: Mọi khúc rẽ có tính cách quyết định đều được ghi dấu bởi sự can thiệp của Thiên Chúa và tất cả đều có tính cách quan phòng. Các sự kiện được đưa vào, được cắt nghĩa và được sắp xếp để minh hoạ cho một luận đề tôn giáo: Có một Thiên Chúa đã thành lập một dân và đã ban cho dân ấy một xứ sở. Thiên Chúa ấy là Yavê, dân ấy là Israel và xứ ấy là Ðất Thánh. Nhưng các trình thuật này có tính cách lịch sử theo nghĩa, chúng thuật lại những biến cố thật, chúng đưa ra một hình ảnh trung thực về nguồn gốc và các cuộc di dân của tổ tiên Israel về các liên lạc địa dư và chủng tộc của họ và về thái độ luân lý và tôn giáo của họ.

Sau một khoảng trống dài, sách Xuất hành và sách Dân số mô tả lại các biến cố từ lúc Môsê sinh ra tới lúc ông từ trần: Việc ra khỏi đất Aicập, dừng lại ở Sinai, tiến đến Cađes, hành trình ngang qua Yorđan và lập cư ở cánh đồng Moab. Nếu chối bỏ sự thật lịch sử của các sự kiện này và con người Môsê, thì không làm sao có thể hiểu được phần kế tiếp của lịch sử Israel, sự trung tín của Israel đối với đạo Yavê và sự gắn bó của Israel với Lề luật. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng tầm quan trọng của các ký ức này đối với sinh hoạt của dân và ảnh hưởng của chúng trong các nghi lễ đã mặc cho các trình thuật cái màu sắc của một anh hùng ca (như việc ngang qua Biển Ðỏ) và đôi khi, của một phụng vụ (như Lễ Vượt qua). Israel, trở thành một dân, đã đi vào lịch sử chung. Vai trò của sử gia hiện đại là so chiếu những dữ kiện này của Kinh Thánh với những sự kiện của lịch sử chung.

Ý nghĩa tôn giáo

Tôn giáo của Cựu Ước cũng như của Tân Ước là một tôn giáo lịch sử. Tôn giáo ấy đặt nền tảng trên sự mạc khải Thiên Chúa đã ban cho những con người nhất định, trong những nơi và hoàn cảnh nhất định và trên những sự can thiệp của Thiên Chúa trong những thời kỳ nhất định của sự biến hóa của nhân loại. Ngũ Kinh, ghi lại lịch sử của những liên lạc ấy giữa Thiên Chúa với trần gian, là nền tảng của tôn giáo Dothái và nó đã trở thành Lề luật của tôn giáo ấy.

Người Dothái tìm thấy ở đó câu trả lời cho những câu hỏi về vận mệnh của mình. Ngay ở đoạn đầu của sách Khởi nguyên, không những chỉ có câu trả lời cho những câu hỏi mà mọi người đặt ra về thế giới, về sự sống, về đau khổ, chết chóc, nhưng còn thấy chứa đựng câu trả lời cho vấn nạn riêng của người Dothái: Tại sao Ðấng Yavê duy nhất lại là Thiên Chúa của Israel, tại sao Israel lại là dân của Người trong số các dân tộc trên thế giới? Chính là bởi Israel đã lãnh nhận lời hứa. Ngũ kinh là sách của những lời hứa: Hứa sự cứu rỗi cho Ađam và Eva sau khi họ sa ngã, bảo đảm một trật tự mới của thế giới cho Noê sau Hồng thuỷ và nhất là lời hứa với Abraham. Lời hứa ấy đã được lặp lại cho Ysaac và Yacob và bao gồm toàn thể dân xuất phát từ họ. Lời hứa ấy nhắm trực tiếp vào việc chiếm hữu xứ mà các tổ phụ đã sống: Ðất Hứa; nhưng cũng diễn tả những liên lạc đặc biệt và duy nhất giữa Israel và Thiên Chúa của cha ông.

Yavê đã kêu gọi Abraham và việc kêu gọi này đã hàm ẩn việc tuyển chọn Israel. Chính Yavê đã làm cho Israel thành một dân của Người bởi một sự lựa chọn nhưng không, bởi một ý định của tình thương được phác họa từ ngày tạo dựng và các kế đồ của tình thương đó được thực hiện liên tục ngang qua cả những bất trung, thất tín của con người.

Lời hứa và sự tuyển chọn này được bảo đảm bởi một giao ước. Ngũ kinh cũng là sách của những giao ước: Giao ước với Ađam, với Noê, với Abraham và cuối cùng với toàn thể dân ngang qua Môsê. Ðây không phải là một giao kèo giữa hai bên, vì Thiên Chúa không cần đến giao ước đó và mặt khác là chính Người đã đi bước đầu; tuy nhiên Người đã dấn thân vào và có thể nói, đã tự cột mình vào những lời hứa. Ngược lại Người cũng đòi hỏi dân của Người phải trung tín: Sự từ khước của Israel - tội của Israel - có thể cắt đứt cái liên lạc được tạo nên bởi tình thương của Thiên Chúa.

Ðiều kiện của sự trung tín này do chính Thiên Chúa ấn định. Thiên Chúa ban cho dân Người đã chọn một lề luật, lề luật này cho dân thấy bổn phận của mình, cách đối xử phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa và trong khi duy trì giao ước, chuẩn bị cho việc thực hiện các lời hứa.

Các đề tài về lời hứa, tuyển chọn, giao ước, lề luật là những sợi chỉ vàng đan chéo nhau trong Ngũ kinh và chạy suốt trong Cựu Ước. Bởi vì Ngũ kinh tự nó chưa được toàn vẹn: Nó nói lên lời hứa nhưng chưa thực hiện bởi vì Ngũ kinh chấm dứt trước khi vào Ðất Hứa. Nó phải được bỏ ngỏ nhưng một sự cậy trông tin tưởng và như một sự thúc bách, tin tưởng trong những lời hứa mà việc chinh phục đất Canaan có vẻ đã làm trọn (Yôs 23) nhưng tội lỗi đã làm cản trở và những kẻ đi lưu đày sẽ nhớ lại ở Babylon; sự thúc bách của một lề luật, lề luật ấy lưu truyền trong Israel như một người chứng tố cáo (Thứ luật 31 26).

Ðiều đó kéo dài cho tới Ðức Kitô. Ðức Kitô đã ký kết một giao ước mới và đưa vào giao ước ấy các Kitô-hữu, những người thừa tự của Abaham bởi lòng tin. Lề luật đã được ban ra để duy trì các lời hứa như một thầy dạy dẫn tới Ðức Kitô, sự thực hiện các lời hứa và do đó, trong Ðức Kitô, người Kitô-hữu không còn dưới quyền thầy dạy, người Kitô-hữu đã được giải phóng khỏi lề luật. Nhưng điều ấy không có nghĩa là người Kitô-hữu không còn nằm trong giáo huấn luân lý và tôn giáo của lề luật nữa. Bởi Ðức Kitô đã đến không phải để hủy bỏ mà là để làm trọn (Mt 5 17). Tân Ước không đối nghịch với Cựu Ước mà là nối tiếp. Hội Thánh không những đã nhìn thấy trong những biến cố lớn của thời các tổ phụ và thời Môsê, trong những ngày lễ và các nghi lễ tại sa mạc, những sự thực của luật mới (sự hy sinh của Ðức Kitô, phép rửa, cuộc vượt qua của Kitô-hữu) nhưng lòng tin Kitô-giáo còn đòi hỏi cũng một thái độ căn bản mà các trình thuật và giáo huấn của Ngũ kinh đòi hỏi nơi người Dothái. Người Kitô-hữu có thể đọc Ngũ kinh theo thứ tự sau: Khởi nguyên, sau khi đối chọi những bất trung của con người tội lỗi với lòng nhân lành của Thiên Chúa tạo dựng đã cho thấy trong các tổ phụ phần thưởng được ban cho lòng tin. Sách Xuất hành là nét phác họa cuộc cứu chuộc chúng ta. Sách Dân số nói lên thời thử thách, trong đó Thiên Chúa vừa giáo dục, vừa sửa trị con cái của Người, chuẩn bị cho việc thu họp những kẻ được tuyển lựa. Sách Lêvi sẽ được đọc với nhiều lợi ích hơn khi nối liền với những chương cuối của tiên tri Êzêkiel hoặc sau các sách Ezra hay Nêhêmya. Việc đọc sách Thứ luật sẽ đi đôi với việc đọc sách của tiên tri Yêrêmya, một tiên tri gần gũi nhất cả về thời gian lẫn tinh thần.

* * *
Nguồn: Vietnamese Missionaries in Asia http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible2/ngukinh.htm