Sunday, February 23, 2014

Pope Francis' Homily at Consistory

"The Church needs us also to be peacemakers, building peace by our works, our hopes and our prayers." - Pope Francis

VATICAN CITY, February 23, 2014 (Zenit.org) - Here is the translation of the Holy Father's homily at yesterday's Consistory where he elevated 19 prelates to the College of Cardinals.

* * *

"Jesus was walking ahead of them…" (Mk 10:32).

At this moment too, Jesus is walking ahead of us. He is always before us. He goes ahead of us and leads the way… This is the source of our confidence and our joy: to be his disciples, to remain with him, to walk behind him, to follow him…

When with the Cardinals we concelebrated the first Mass in the Sistine Chapel, the first word which the Lord proposed to us was "to walk", to journey with him: to journey, and then to build and to profess.

Today this same word is repeated, but now as an action, an action of Jesus which is ongoing: "Jesus was walking…". This is something striking about the Gospels: Jesus is often walking and he teaches his disciples along the way. This is important. Jesus did not come to teach a philosophy, an ideology… but rather "a way", a journey to be undertaken with him, and we learn the way as we go, by walking. Yes, dear brothers, this is our joy: to walk with Jesus.

And this is not easy, or comfortable, because the way that Jesus chooses is the way of the Cross. As they journey together, he speaks to his disciples about what will happen in Jerusalem: he foretells his passion, death and resurrection. And they are "shocked" and "full of fear". They were shocked, certainly, because for them going up to Jerusalem meant sharing in the triumph of the Messiah, in his victory – we see this in the request made by James and John. But they were also full of fear for what was about to happen to Jesus, and for what they themselves might have to endure.

Unlike the disciples in those days, we know that Jesus has won, and that we need not fear the Cross; indeed, the Cross is our hope. And yet, we are all too human, sinners, tempted to think as men do, not as God does.

And once we follow the thinking of the world, what happens? The Gospel tells us: "When the ten heard it, they began to be indignantat James and John" (Mk 10:41). They were indignant. Whenever a worldly mentality predominates, the result is rivalry, jealousy, factions…

And so the word which Jesus speaks to us today is most salutary. It purifies us inwardly, it enlightens our consciences and helps us to unite ourselves fully with Jesus, and to do so together, at this time when the College of Cardinals is enlarged by the entrance of new members.

"And Jesus called them to himself…" (Mk 10:42). Here is the other action of Jesus. Along the way, he is aware that he needs to speak to the Twelve; he stops and calls them to himself. Brothers, let us allow Jesus to call us to himself! Let us be "con-voked" by him. And let us listen to him, with the joy that comes from receiving his word together, from letting ourselves be taught by that word and by the Holy Spirit, and to become ever more of one heart and soul, gathered around him.

And as we are thus "con-voked", "called to himself" by our one Teacher, I will tell you what the Church needs: she needs you, your cooperation, and even more your communion, with me and among yourselves. The Church needs your courage, to proclaim the Gospel at all times, both in season and out of season, and to bear witness to the truth. The Church needs your prayer for the progress of Christ’s flock, that prayer – let us not forget this! – which, along with the proclamation of the Word, is the primary task of the Bishop. The Church needs your compassion, especially at this time of pain and suffering for so many countries throughout the world. Let us together express our spiritual closeness to the ecclesial communities and to all Christians suffering from discrimination and persecution. We must fight every form of discrimination! The Church needs our prayer for them, that they may be firm in faith and capable of responding to evil with good. And this prayer of ours extends to every man and women suffering injustice on account of their religious convictions.

The Church needs us also to be peacemakers, building peace by our works, our hopes and our prayers. Building peace! Being peacemakers! Let us therefore invoke peace and reconciliation for those peoples presently experiencing violence, exclusion and war.

Thank you, dear Brothers! Thank you! Let us walk together behind the Lord, and let us always be called together by him, in the midst of his faithful people, the holy People of God, holy Mother the Church. Thank you!

+ Pope Francis

Monday, February 17, 2014

Tại Sao Giáo Hội Cần Phải Nghèo Để Rao Giảng Tin Mừng?

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng "tôn thờ tiên bạc" (cult of money) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.

Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư (homeless) nghèo đói sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước. Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ và chính quyền liên bang cũng như tiểu bang, cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này. Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak, Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria... vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ! (Irak và Afghanistan)

Đức Thánh Cha phê phán thế giới "tôn thờ tiền bạc" vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này. Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm qua (2013), ngài đã chọn danh hiệu "Phanxicô" cho triều đại Giáo Hoàng (Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, "Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có." (2 Cor 8:9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa, "Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người." (Mt 20: 28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1 vừa qua (2014), Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:

"Cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng (promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài (decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim… do đó xin quí chư huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ (austerity) tiết độ (sobriety) và khó nghèo (poverty)".

Tại sao phải sống khó nghèo?

Khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư,lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở bệnh viện. Nghĩa là không "lý tưởng thiếu thực tế" để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng điều quan trọng nhất là phải thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là "Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ."(Mt 5:3; Lc 6 : 20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát, rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng trần thế đến độ làm nô lệ cho chúng để không chú trọng vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.

Sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ, Tòa Giám mục được xây cất sang trọng, lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi giáo dân để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội, đi lễ, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Mặt khác, người tông đồ lớn nhỏ - nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là "con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Mt 8: 20)

Thử hỏi Chúa có đóng kich "khó nghèo" từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không? Ai dám nói là có ? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và "tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được." (Mt 6: 20)

Nếu chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng và không xa tránh những cám dỗ về tiền bạc và quan tâm đúng mức đến người nghèo khổ, thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu được. Và cũng không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.

Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các xe đắt tiền loại Lexus, BMW, Mercedes… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ (stipends) cao thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì "con sâu làm rầu nồi canh" như tục ngữ Việt Nam đã nói.

Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, để chú tâm vào việc thi hành sứ mệnh của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và chân lý của sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa, Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà "mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người." (1 Cr 2: 9)

Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí của trần này, thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác. Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này không phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc, danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là "hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi." (Mc 10: 21)

Lời Chúa trên đây phải là đèn soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội bước đi qua bóng tối của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi Chúa nói: "ai có tai nghe thì nghe" (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
(http://danchuausa.net/song-dao/tai-sao-giao-hoi-can-phai-ngheo-de-rao-giang-tin-mung/)

Tuesday, February 11, 2014

Bài giảng Thánh Lễ khai mạc Năm Thánh mừng 400 năm Dòng Tên đến Việt Nam

§ + GM Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ

Kính thưa Đức Tổng giám mục chủ sự và toàn thể cộng đoàn,

Ngày 18.1.1615, ba anh em Dòng Tên là cha Phanxicô Buzomi, người Ý, một linh mục người Bồ Đào Nha và một tu huynh người Bồ Đào Nha, đặt chân lên Cửa Hàn, nay là Đà Nẵng: đó là một mốc quan trọng hàng đầu trong lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam. Hôm nay chúng ta họp nhau đây mở đầu một năm Dòng Tên tạ ơn Chúa và xin Chúa ban ơn để trung thành và can đảm tiếp bước các bậc tiền nhân. Từ Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội này, xin gửi lời chúc mừng đến giáo phận Đà Nẵng và giáo xứ Hội An hôm nay cùng kỷ niệm biến cố có thể nói là ngày khai sinh giáo phận và giáo xứ.

Trước ngày 18.1.1615, đã có những người đến rao giảng Tin Mừng ở Việt Nam. Thánh Giá được khắc trên đá ở Cù Lao Chàm năm 1523 là dấu hiệu đầu tiên của Kitô giáo trên quên hương chúng ta. Các thừa sai dòng Phanxicô và Đaminh cũng đến truyền giáo ở Đàng Trong (tức Miền Nam) và Đàng Ngoài (tức Miền Bắc), nhưng kết quả cụ thể không thấy lịch sử ghi nhận.

Ban đầu các vị thừa sai Dòng Tên chỉ muốn đến giúp các tín hữu Công Giáo Nhật Bản phải trốn đến Hội An để tránh cuộc bách hại khốc liệt trong nước. Chẳng bao lâu, các ngài thấy tâm hồn người Việt Nam rất gần với Tin Mừng, nên nhận ra Việt Nam là mảnh đất tốt để gieo Lời Chúa. Dịp lễ Phục Sinh năm ấy, các ngài đã đón nhận 10 tín hữu đầu tiên. Từ Hội An, các ngài mở rộng hành động truyền giáo đến Bình Định rồi Điện Bàn. Thật lạ lùng! Trong bối cảnh chạy loạn, Tin Mừng đã đến với dòng giống Con Rồng Cháu Tiên. Nhiều bậc tiền bối của chúng ta đã mở lòng đón nhận và Tin Mừng đã thấm dần vào dòng máu Việt mỗi ngày một sâu hơn.

Thấy Việt Nam đúng là mảnh đất mầu mỡ, từ trụ sở tại Macao, Dòng Tên tiếp tục gửi các thừa sai khác đến, trong đó vị nổi tiếng nhất là cha Alexandre de Rhodes mà ngày nay chúng ta quen gọi là cha Đắc Lộ. Sau một thời gian vất vả học tiếng Việt, ngài đã có thể giao tiếp và giảng dạy cho dân chúng. Ngày lễ thánh Giuse 19.3.1627, ngài cùng với một thừa sai khác đặt chân lên Cửa Bạng ở Thanh Hóa, rồi Kẻ Chợ, tức là Hà Nội, chính thức khởi đầu công cuộc truyền giáo ở Miền Bắc, lúc ấy gọi là Đàng Ngoài. Nhờ thông thạo ngôn ngữ và phong tục, nhất là nhờ gương sáng về đời tu và lòng bác ái, ngài đã mau chóng đón nhận đông đảo người xin học đạo và gia nhập đạo.

Ở Hà Nội, cha Đắc Lộ khởi sự hai việc rất ý nghĩa. Trước hết là quyển Phép Giảng Tám Ngày, quyển giáo lý Công Giáo đầu tiên bằng tiếng Việt, và cũng là quyển sách đầu tiên được viết bằng chữ Quốc Ngữ. Thật ra chữ Quốc Ngữ đã được các thừa sai và các thầy giảng Việt Nam khởi sự từ trước. Nhưng việc một quyển sách được in bằng chữ Quốc Ngữ cho thấy cách viết này đã có thể coi như hoàn chỉnh. Thứ đến là ngài đã quy tụ một số người có học và nhiệt thành lập nên Hội Thầy Giảng. Tổ chức này đã tỏ ra rất hiệu quả trong hoạt động truyền giáo, ngay cả khi không có các linh mục. Với quyển Phép Giảng Tám Ngày và Hội Thầy Giảng, có thể nói là Hội Thánh đã thực sự nhập thể trong xã hội Việt Nam: như xưa thánh Phaolô nói "Do Thái với người Do Thái, Hy Lạp với người Hy Lạp", thì với cha Đắc Lộ, chúng ta có thể nói đạo Chúa đã trở nên Việt Nam với người Việt Nam.

Công cuộc truyền giáo luôn luôn là một việc khó khăn. Đối với vua quan cũng như dân chúng Việt Nam, đạo Chúa là điều hoàn toàn mới lạ. Những hiểu lầm và ngay cả những vu cáo là điều hầu như không thể tránh được. Xã hội Việt Nam thời bấy giờ quen với tam cương ngũ thường, quen với con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa, nên khó lòng chấp nhận những điều mới mẻ như mọi người đều bình đẳng, lại phải thương yêu nhau như anh chị em một nhà; vua quan chẳng những không được áp bức bóc lột dân mà phải phục vụ dân như đầy tớ. Cha Đắc Lộ cho biết vào Tuần Thánh năm 1628, ngài rửa chân cho giáo dân trong thánh lễ chiều thứ năm tại Hà Nội, mọi người đều kinh ngạc. Người Việt Nam mau chóng gọi Công Giáo là đạo "thương nhau".

Dù vậy, các cuộc bách hại lẻ tẻ liên tiếp diễn ra và đã có nhiều người hy sinh mạng sống vì đức tin. Vị nổi tiếng nhất chính là chân phước thầy giảng Anrê Phú Yên,vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam, mở đầu cho những trang sử hào hùng của Giáo Hội Việt Nam, trong đó có 16 anh em Dòng Tên, kể cả các thừa sai và người Việt Nam. Sau nửa thế kỷ, các thừa sai Dòng Tên đã rửa tội cho hơn 100 ngàn người ở Đàng Ngoài và chừng 50 ngàn người ở Đàng Trong, trước khi Tòa Thánh thiết lập hai giáo phận tiên khởi Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đây là khởi đầu cho một Giáo Hội được coi là phát triển nhất ở khu vực Đông Á.

Lời Chúa trong thánh lễ khai mạc Năm Thánh hôm nay cho chúng ta một xác tín quan trọng: việc loan báo Tin Mừng xuất phát từ trái tim yêu thương của Thiên Chúa mong muốn cho con người được cứu độ và hạnh phúc đời đời. Chúa Giêsu nói với các tông đồ: Hãy đi giảng dạy muôn dân… Tại sao? Thánh Phaolô trả lời: "Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý." Truyện ông Giôna với thành Ninivê và cây thầu dầu cho thấy lòng con người nhỏ bé, trong khi trái tim Thiên Chúa thật cao cả.

Trong 400 năm qua, nói cho đúng thì Dòng Tên chỉ đóng góp một phần bé nhỏ trong lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam. Bao nhiêu thừa sai khác, bao nhiêu dòng tu khác, bao nhiêu tâm hồn quảng đại và can đảm khác đã góp phần hết sức quan trọng vào công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh tại Việt Nam. Đặc biệt chúng ta không quên được hơn 100 ngàn tín hữu thuộc đủ mọi thành phần đã lấy chính mạng sống mình làm chứng cho Chúa, trong đó 117 vị đã được tôn vinh lên bậc hiển thánh.

Sau khi bị giải thể năm 1773, Dòng Tên vắng bóng ở Việt Nam trong 150 năm. Hiện nay, sau hơn 50 năm trở lại miền đất thân yêu Việt Nam, Dòng Tên hân hạnh tiếp tục đóng góp phần nhỏ bé với một Giáo Hội đầy sức sống. Đâu là ước nguyện của Dòng Tên xưa cũng như nay? Xin phép được dùng một truyện để minh họa.

Trên rừng có muôn vàn loài cây, nhưng có thể chia làm 3 loại chính. Loại thứ nhất gồm những cây không ước mơ cũng không phấn đấu. Loại thứ hai gồm những cây có ước mơ nhưng không phấn đấu. Loại thứ ba gồm những cây vừa có ước mơ vừa biết phấn đấu. Trong loại ba này có 3 cây con. Cây thứ nhất ước mơ và phấn đấu để trở thành một cây gỗ quý, có thể dùng làm tráp cho vua chúa và hàng quý tộc đựng vàng bạc châu báu. Cây thứ hai ước mơ và phấn đấu trở thành một cây thật to và chắc, có thể đóng thuyền cho vua vượt đại dương. Cây thứ ba ước mơ và phấn đấu thành một cây cao, ai nhìn lên ngọn thì thấy trời và ai trèo lên đến ngọn thì cũng lên đến trời.

Một tiều phu lên rừng đốn củi: ông chẳng phân biệt cây loại này với cây loại kia, đem tất cả về bán cho ai trả giá hợp lý. Cây con thứ nhất rơi vào tay một nhà nông: thay vì làm tráp đựng vàng bạc châu báu thì ông đóng được một cái máng cho bò ăn cỏ. Cây con thứ hai rơi vào tay một người đóng thuyền: thay vì làm thuyền cho vua vượt đại dương, ông đóng được một cái thuyền đánh cá. Cây con thứ ba cong queo và sù sì rơi vào tay một bà nội trợ: bà chất đống củi đợi ngày cho vào bếp. Thật là đáng thất vọng cho cả ba.

Nhưng khi Chúa Giêsu sinh ra, Đức Mẹ đã đặt Chúa trong máng cỏ: đó chính là cây con thứ nhất. Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Chúa đã mượn thuyền của thánh Phêrô: đó chính là cây con thứ hai. Khi lính Rôma tìm gỗ làm thập giá đóng đinh Chúa, họ đã lấy chính cây con thứ ba trong đống củi của bà nội trợ. Quả thật ai nhìn lên cây thập giá của Chúa thì thấy trời cao và Chúa Giêsu nói: Khi được đưa lên cao, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.

Ngoài Thiên Chúa, những ước mơ của con người sẽ trở thành ảo vọng. Với Thiên Chúa, những ước mơ của con người trở thành hiện thực hơn chính con người mong đợi. Đó chính là điều thánh Inhã chờ mong nơi con cái của Dòng Tên: trở thành khí cụ trong tay Chúa để Chúa thực hiện kế hoạch cứu độ kỳ diệu cho con người.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục vang lên trong lòng chúng ta hôm nay: Hãy lên đường! Hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Hãy làm cho cả đất nước Việt Nam này nhận biết Đấng là đường, sự thật và sự sống. Hôm nay khởi đầu tuần lễ cầu nguyện cho Hội Thánh được hiệp nhất, xin Chúa cho tất cả chúng ta luôn một lòng với Hội Thánh như ước nguyện của thánh Inhã trong Linh Thao. Chúng ta cũng vừa đón nhận tông huấn Niềm Vui Phúc Âm của Đức Thánh Cha Phanxicô, xin cho chúng ta cùng với cả Hội Thánh cảm nghiệm sâu xa niềm vui được làm những môn đệ thừa sai để tiếp bước Chúa Giêsu, các tông đồ, các nhà truyền giáo đã đem Tin Mừng đến cho quê hương thân yêu của chúng ta.

Hãy đặt cuộc đời bình thường của chúng ta trong tay Thiên Chúa tình yêu và Ngài sẽ thực hiện qua chúng ta những điều chính con người không dám mơ ước. Xin Thánh Inhã và các thánh Dòng Tên phù hộ chúng ta. Amen.

+ GM Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ