Thursday, July 30, 2015

Thomas Merton's Prayer‏

"My Lord God, I have no idea where I am going. I do not see the road ahead of me. I cannot know for certain where it will end. Nor do I really know myself, and the fact that I think that I am following your will does not mean that I am actually doing so. But I believe that the desire to please you does in fact please you. And I hope I have that desire in all that I am doing. I hope that I will never do anything apart from that desire. And I know that if I do this you will lead me by the right road, though I may know nothing about it. Therefore will I trust you always, though I may seem to be lost and in the shadow of death. I will not fear, for you are ever with me, and you will never leave me to face my perils alone."

Thomas Merton - Thoughts In Solitude

Friday, June 19, 2015

Chúa mạc khải 15 kinh nguyện cho thánh Brigitta tại nhà thờ Thánh Phaolô ở Rôma

Kinh nguyện được: Ðức Giáo Hoàng PIÔ IX chuẩn nhận

I- GỐC TÍCH
Thánh nữ Brigitta (1303 - 1373) là ái nữ quận công Birger. Quả phụ của Tiểu Vương Unphô. Hàng năm lễ kính thánh nữ vào ngày 8 tháng 10. Ngày 14-6-1303, lúc Brigitta chào đời, linh mục Benoit, Chánh xứ Rasbo, đang cầu nguyện, bỗng được áng mây sáng láng bao phủ, Ðức Trinh Nữ xuất hiện và phán:"Một công chúa được sinh ra cho Birger, tiếng nàng sẽ được cả thế giới nghe theo."

Ðã từ lâu lắm. Thánh Nữ Brigitta ao ước biết rõ số roi đòn mà Chúa chịu trong cuộc Tử Nạn của Ngài. Một hôm Chúa hiện ra và phán dạy: "Cha đã lãnh chịu trên thân xác 5480 roi đòn mà nếu con muốn tôn kính bằng một việc tôn sùng. Con hãy đọc 15 Kinh Lạy Cha, 15 Kinh Kính Mừng cùng với những kinh sau đây (chính Chúa dạy) trong một năm tròn. Hết một năm, tức là con đã kính chào từng vết thương của Cha."

II- ƠN ÍCH
Chúa thêm rằng: "Ai đọc kinh nguyện này trong một năm tròn, sẽ cứu được:

  • 15 linh hồn trong dòng họ của mình khỏi luyện ngục.
  • 15 người tội lỗi trong dòng họ của mình được ăn năn trở lại.
  • 15 người trong dòng họ của mình được vững vàng và bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
Người nào đọc kinh nguyện đó sẽ đạt đến bậc nhất trên đường trọn lành.

  • 15 ngày trước khi chết, Cha sẽ ban cho linh hồn đó Thánh Thể Cha, để khỏi đói đời đời, cho uống Bửu Huyết Cha, để khỏi khát muôn thuở.
  • 15 ngày trước khi chết, kẻ ấy sẽ biết hết sức rõ ràng mọi tội lỗi đã phạm để thống hối trọn hảo.
  • Cha sẽ đặt Dấu Thánh Giá toàn thắng trước mặt kẻ ấy làm thành trì giúp đỡ chống mọi cạm bẫy kẻ thù.
  • Trước giờ chết, Cha và Mẹ rất yêu dấu và quí mến của Cha sẽ đến, dịu dàng đón rước linh hồn ấy lên nơi cực lạc. Tới nơi, Cha sẽ ban riêng cho một đặc ân: là được uống no đầy dòng suối Thiên Chúa Tình là ơn mà Cha sẽ không bao giờ ban cho kẻ không đọc bản Kinh Nguyện Cha dạy đây.

NGOÀI CÁC ƠN HỨA TRÊN CÒN NHIỀU ƠN KHÁC NHƯ:

  • Người nào sống 30 năm trong tội trọng, đọc kinh nguyện này sốt sắng, người nào đề nghị người khác đọc kinh nguyện đó, Chúa sẽ tha hết mọi tội lỗi đã phạm. Người nào đọc kinh nguyện này trong một năm, được Chúa ban cho khỏi mọi tai nạn nặng gây hư hỏng ngũ quan, khỏi chết bất đắc kỳ tử, xin ơn gì với Chúa và Ðức Mẹ cũng được miễn là hữu ích cho phần rỗi.
  • Nơi nào kinh nguyện này được đọc hoặc sẽ được đọc, Thiên Chúa hiện diện với nguồn Thánh Sủng.

III- ÐIỀU KIỆN

  • Phải đọc KINH NGUYỆN ấy hàng ngày.
  • Vì lý do bất khả kháng, phải gián đoạn một vài lần, cũng hưởng được hết các ơn ích kể trên, miễn là đọc bù lại cho đủ 5480 KINH NGUYỆN trong năm.
  • Ðọc sốt sắng, hiểu ý nghĩa lời mình đọc.
  • Có thể dùng KINH NGUYỆN này để đi Ðàng Thánh Giá.
VI- GIÁ TRỊ NHỮNG MẠC KHẢI

  • Những kinh nguyện và những lời hứa này được ấn hành trong một quyển sách tại Toulouse nước Pháp năm 1740, do Cha Adrien Parvilliers, Dòng Tên, thừa sai ở Thánh Địa được sự công nhận, ban phép và cổ võ phổ biến.
  • Đức Giáo Hoàng Benoit XV tuyên bố về những mặc khải Thánh Nữ Brigitta như sau: "Sau khi đã suy nghĩ chính chắn, ta đã phê nhận những mặc khải như thế, không ngoài mục đích cho phép in những mặc khải ấy để mưu ích cho giáo dân. Tuy không buộc tin như những chân lý đạo, nhưng người ta có thể tin, theo sự tin tưởng thường tình của người đời, hợp luật khôn ngoan, theo đó những mặc khải này đứng đắn và dựa trên những lý do đủ để tin tưởng một cách đạo đức." (Tiểu Văn Đoàn của L.M. Bolland, Đ.T. qu. XII).
  • Ðức Pio IX đã đọc những bản KINH NGUYỆN cùng các ơn hứa này, và phê chuẩn ngày 31-5-1862 công nhận là đúng sự thực và hữu ích cho giáo dân.


KINH NGUYỆN 1
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu Kitô, là sự êm dịu muôn đời cho người kính mến Chúa, là nguồn vui vượt mọi vui thích ước mơ, là ơn cứu độ và hy vọng của mọi tội nhân. Chúa đã chứng tỏ không gì thỏa mãn lòng Chúa bằng được ở giữa loài người, đến nỗi tới thời đã định, Chúa đã mặc xác phàm vì yêu thương nhân loại.
 
Xin Chúa nhớ lại trong bữa tiệc ly từ biệt môn đệ. Sau khi rửa chân cho các ngài, Chúa đã ban Mình Cực Thánh và Máu Châu Báu Chúa, và trong lúc dịu dàng yên ủi các ngài, Chúa báo trước cuộc tử nạn sắp tới của Chúa.


Xin Chúa nhớ lại biết bao phiền sầu lo âu, Chúa chịu trong tâm hồn, Chúa đã cầu nguyện ba lần ướt đẫm mồ hôi máu và Chúa đã phải thốt lên: "Linh hồn Thầy buồn phiền quá đổi đến chết được". (Matt. 26:38)


Xin nhớ lại biết bao đau đớn thống khổ Chúa chịu trên thân mình trước khi thụ hình thập giá, Chúa bị Giuđa môn đệ phản bội, bị dân Chúa chọn và ưu đãi bắt trói, bị nhân chứng giả vu cáo, bị ba toà lên án bất công giữa tuổi thanh xuân trong mùa đại lễ Vượt Qua.
 

Xin nhớ lại, Chúa bị lột trần bị khoác áo chế diễu, bị bịt mắt, bị vả mặt, bị đội mũ gai, tay cầm cây sậy, bị trói vào cột đá, bị đánh đòn nứt nẻ thịt da, bị xúc phạm ê chề nhục nhã.
 

Lạy Chúa vì tưởng niệm mọi cực hình và những thống khổ Chúa chịu trước khi bị đóng đinh thập giá, Xin ban cho con: trước giờ chết được thật lòng sám hối, xưng sạch tội lỗi, đền tội xứng đáng, được ơn tha thứ hết mọi tội khiên. Amen.
 

"Giờ đây, đối với những ai liên kết với Đức Giêsu Kitô những ai không sống với tính tự nhiên loài người, thì không còn vấn đề lên án nữa". (Rm. 8:1)
 

KINH NGUYỆN 2
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là niềm vui của các Thiên Thần, là Thiên Đàng hoan lạc, xin Chúa nhớ lại sự buồn phiền kinh hãi Chúa chịu, khi quân dữ như đàn sư tử hung dữ vây quanh Chúa, đua nhau hành hạ Chúa bằng những lời chửi mắng, phỉ nhổ, đánh đập và nhiều khổ hình chưa từng nghe nói.
 

Lạy Chúa Cứu Thế, vì những thống khổ, những xúc phạm sỉ nhục ấy, xin Chúa cứu con thoát khỏi mọi quân thù hữu hình và vô hình. Dưới bóng che chở của Chúa, xin đem con tới nơi hạnh phúc trọn vẹn muôn đời. Amen.


KINH NGUYỆN 3
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu, Đấng tạo thành trời đất, không ai thu hẹp nổi hoặc đặt giới hạn cho Chúa được. Vì Chúa là Đấng bao gồm và điều khiển mọi sự, trong quyền năng Chúa. Xin nhớ lại những cực hình Chúa chịu, khi quân Do-thái trói ghì chân tay cực thánh và dịu hiền vào Thánh Giá, đóng đinh to thâu qua. Khi làm khổ chưa vừa ý hung hãn của chúng, bởi lòng ác độc khôn tả, chúng còn hè nhau làm toác rộng vết thương, làm giãn các khớp xương, để càng chồng chất thêm đau đớn bằng cách dộng thánh giá xuống, hoặc lôi kéo tứ phía để sức nặng thân hình trì xệ lệch khớp gây đau đớn khôn tả.
 

Lạy Chúa, nhân vì những cực hình rùng rợn trên Thánh Giá, xin Chúa ban cho con lòng kính sợ và yêu mến Chúa tận tình. Amen.


KINH NGUYỆN 4
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là thầy thuốc bởi trời chịu treo trên Thánh Giá để cứu chữa vết thương chúng con bằng chính vết thương Chúa. Xin Chúa nhớ lại mọi phần thân thể Chúa bị bầm dập, nhừ nát không nơi nào nguyên vẹn, đến nỗi không đau đớn nào sánh ví được. Từ gan bàn chân đến đỉnh đầu, không nơi nào không bị hành hạ. Nhưng quên mọi đau đớn, Chúa hằng cầu xin Chúa Cha cho kẻ hành hạ mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23:24). Nhân vì lòng nhân hậu cao cả đó và khi tưởng nhớ cuộc tử nạn thảm thương ấy, xin Chúa cho con được ăn năn tội cách trọn và được ơn tha thứ hết mọi tội lỗi. Amen.
 

"Nào Thiên Chúa của người đòi hỏi người điều gì khác, ngoài việc kính sợ Chúa, và yêu mến thờ phượng Chúa hết dạ hết lòng." (Đệ II Luật 10:12)


KINH NGUYỆN 5
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là gương phản chiếu ánh sáng ngàn đời, xin nhớ lại nỗi buồn phiền khi Chúa nhìn thấy trong ánh sáng Thiên Tính Chúa, có những kẻ được cứu rỗi nhờ công ơn Chúa cứu độ, và còn vô số bị đày sa hỏa ngục vì tội lỗi họ.
 

Chúa đã cảm thương nhiều, vì số người hư mất và thất vọng ấy. Lạy Chúa Giêsu dịu hiền, nhân vì lượng từ bi lân tuất thẳm sâu của Chúa, nhất là lòng nhân hậu đối với người trộm lành; khi Chúa phán: "Ngày hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với ta". (Lc 23:43).

Xin Chúa cũng khoan dung nhân hậu đối với con như vậy khi con hấp hối ly trần. Amen.


"Hãy sống theo thần khí, và anh em không còn thỏa mãn những đam mê xác thịt nữa, vì xác thịt thì ước muốn nghịch cùng thần khí. Còn thần khí lại nghịch cùng xác thịt: đôi bên kình nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn". (Gal. 5:16-17).


KINH NGUYỆN 6
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là Vua rất đáng mến và đáng ước mong, xin nhớ lại sự đau khổ Chúa chịu khi bị đóng đanh treo trên thập giá trần trụi như kẻ phàm hèn. Mọi họ hàng thân thích đều trốn bỏ, trừ Mẹ rất yêu dấu Chúa, vẫn kiên trung bên Chúa trong cơn hấp hối. Người Mẹ mà Chúa trối lại cho môn đệ tín nghĩa: "Thưa Mẹ, đây là con Mẹ", đoạn nói với Gioan: "Đây là Mẹ con". (Ga 19:26-27).

Lạy Chúa Giêsu cứu chuộc con, nhân vì lưỡi giáo đau thương thâu qua lòng Mẹ rất thánh của Chúa khi ấy, xin Chúa thương xót con trong mọi cơn gian khổ xác hồn. Xin cứu giúp con trong mọi gian nan thử thách, nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
 

"Tôi đã cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Thế nên tôi có sống, thì không phải tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi". (Gal. 3:20).
         

KINH NGUYỆN 7
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là suối từ bi vô tận, vì tấm lòng Chúa thương yêu vô ngần, nên từ trên Thánh giá Chúa đã thốt ra: "Ta khát" (Ga 19:28). Chúa khát khao phần rỗi nhân loại.
 

Lạy Chúa Cứu Chuộc, con khẩn cầu Chúa thiêu đốt lòng con. Xin làm cho con khao khát đạt tới đời sống trọn lành, và xin dập tắt mọi lửa tình dục và những đam mê thế tục trong lòng chúng con. Amen.


KINH NGUYỆN 8
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là sự êm dịu cho mọi tâm hồn, Chúa đã nếm dấm chua mật đắng trên Thánh Giá vì thương yêu chúng con. Xin ban cho chúng con được ơn rước Mình Máu rất châu báu Chúa cách xứng đáng, khi còn sống và trong giờ chết, để nên linh dược chữa bệnh, nên nguồn an ủi cho linh hồn chúng con. Amen.


KINH NGUYỆN 9
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu anh dũng vương giả và hoan lạc tâm can con, xin nhớ lại nỗi thống khổ Chúa chịu khi gần sinh thì. Tâm hồn tràn ngập đắng cay vì bị dân Do-thái sỉ nhục xúc phạm; Chúa lên tiếng kêu than dường như bị Chúa Cha từ bỏ: "Lạy Cha, Lạy Cha, Cha bỏ Con sao?" (Mat 27:46).
 

Lạy Chúa cứu chuộc con, nhân vì sự phiền sầu đó, con nài xin Chúa chớ bỏ con phải hãi hùng đau đớn trong giờ lâm tử. Amen.


KINH NGUYỆN 10
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là khởi đầu và kết thúc, Chúa là nguồn sống và dũng lực, xin Chúa nhớ lại vì chúng con mà toàn thân Chúa, từ đầu tới chân bị tràn ngập đau thương.
 

Nhân vì sự cao cả do những thương tích Chúa chịu, xin dạy con biết vui lòng và trung thành tuân giữ trọn vẹn luật Chúa. Lề luật này là đường dẫn đưa đến gặp Chúa, là con đường rất êm đềm cho những ai yêu mến Chúa. Amen.


KINH NGUYỆN 11
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu vô cùng lân tuất, cậy vì những thương tích Chúa đã chịu thấu tới xương tủy tâm can, xin lôi kéo con đang đắm chìm trong phản nghịch.
 

Xin đem con ra khỏi vòng tội lỗi, lại đem con vào ẩn náu trong những vết thương của Chúa để tránh Nhan Thánh uy nghiêm và phép công thẳng Chúa cho tới khi nào Chúa ngơi cơn thịnh nộ. Amen.


KINH NGUYỆN 12
Lạy Cha ... Kính Mừng...
Lạy Chúa Giêsu là gương chân lý, là dấu chỉ hiệp nhất, là dây bác ái, xin Chúa nhớ lại vô vàn đau thương Chúa chịu: từ đầu đến chân, toàn thân tan nát đầm đìa máu đào khả kính. Ôi! Đau thương khốn cực xiết bao! Chúa đã chịu tất cả trên tấm thân trinh khiết vì yêu thương chúng con. Ôi! Chúa Giêsu dịu hiền! Còn gì làm được mà Chúa chưa làm cho chúng con?
 

Lạy Chúa cứu chuộc con, xin lấy Máu Châu Báu in mọi vết thương Chúa vào lòng con, để con luôn luôn đọc thấy mọi thống khổ và tình yêu Chúa. Chớ gì nhờ sự luôn tưởng nhớ ơn tử nạn Chúa mà tâm hồn con được đổi mới, Đức Mến ngày càng tăng tiến cho đến khi nào con về với Chúa là nguồn mọi Hoan Lạc là kho mọi Hạnh Phúc mà con nài xin Chúa ban cho con trên cõi trường sinh. Amen.
 

"Ai ở trong Đức Kitô là một tạo vật mới. Những gì cũ đã qua đi, nay mọi sự đều trở nên mới". (2 Cor. 5:17).


KINH NGUYỆN 13
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là nguồn sức mạnh vô song, là Vua toàn thắng và hằng sống, xin nhớ lại sự đau đớn  Chúa chịu khi toàn thể sức mạnh tinh thần và thể chất Chúa hoàn toàn kiệt quệ, Chúa gục đầu và phán: "Mọi sự đã hoàn tất". (Ga 19:30).
 

Lạy Chúa Giêsu, vì sự buồn phiền và đau thưong ấy, con nài xin Chúa thương xót con trong giờ lâm chung khi tâm trí con bối rối lo âu, khi tâm hồn con hãi hùng khiếp sợ. Amen.


KINH NGUYỆN 14
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu, Con Một Chúa Cha, là ánh sáng huy hoàng và là hình ảnh Bản tính Chúa Cha, xin Chúa nhớ lại lời phó thác thiết tha khiêm hạ, Chúa kêu lên Chúa Cha: "Lạy Cha, Con phó linh hồn trong tay Cha". (Lc 23:46). Đoạn Chúa sinh thì khi toàn thân nhừ nát, trái tim tan vỡ và lòng thương xót rộng mở để cứu chuộc chúng con.

Ôi! Vua Cao Cả các thần thánh, cậy vì sự chết vô cùng cao quý này, xin Chúa tiếp sức trợ giúp con chiến thắng đưọc ma quỉ, thế gian, xác thịt, để con chết cho tội lỗi và chỉ sống cho mình Chúa thôi. Trong giờ lâm tử, xin Chúa đón nhận con lưu đày xa quê trở về với Chúa. Amen.
 

"Thiên Chúa có thể dùng quyền năng hoạt động nơi ta, mà làm gấp ngàn lần điều ta dám cầu xin hay nghĩ tới. Nguyện chúc Ngài được vinh quang trong Hội Thánh và nơi Đức Giêsu Kitô đến muôn ngàn đời". (Eph. 3:20).


KINH NGUYỆN 15
Lạy Cha ... Kính Mừng ...
Lạy Chúa Giêsu là cây nho tốt tươi sai trái, xin Chúa nhớ lại những dòng máu từ Xác chí thánh Chúa, quảng đại tuôn ra chan hòa như nho trong máy ép và từ cạnh sườn do lưỡi đòng người lính đâm thấu: Chúa đã ban hết Máu, Nước không còn lại giọt nào. Sau hết, như bó mộc được treo trên Thập Giá rũ rượi, Thánh Thể tinh tuyền Chúa bị hủy hoại, máu nước chảy cạn, xương tủy héo khô.
 

Lạy Chúa Giêsu từ bi lân tuất! Vì cuộc khổ nạn thảm thương nầy và vì những dòng máu châu báu đổ ra chan hòa, con nài xin Chúa đón nhận linh hồn con trong giờ hấp hối ly trần. Amen.
 

"Anh em chung chịu sự thương khó Chúa Kitô bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu để đến ngày vinh hiển của Ngài tỏ hiện, thì anh em được vui mừng và hoan hỉ". (Pr. 4:13).

KINH KẾT THÚC
Lạy Chúa Giêsu vô cùng dịu ngọt,
Tạo vết thương đau xót tâm linh.
Ðêm ngày thống hối tội mình,
Lệ rơi thương cảm vì tình Chúa yêu
Ðiều đó trở thành như cơm bánh,
Nuôi hồn con nên Thánh mỗi ngày.
Ðời con đổi mới từ nay,
Lòng con thành chính lâu đài Chúa yêu
Gắng lập công thật nhiều con hứa,
Ráng sống sao để Chúa vui lòng.
Rồi giờ lâm tử ước mong,
Hiệp thông hạnh phúc ở trong Thiên Ðàng.
Xác hồn con ca vang khen ngợi,
Chúa Ba ngôi Cao Cả tuyệt vời,
Hợp cùng Thần Thánh trên trời,
Tung hô cảm tạ muôn đời, Amen.

Saturday, May 30, 2015

NHẬN ĐỊNH VỀ PHONG TRÀO “SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI”

17 / 04/ 2015, 01:04:51

Phong trào mệnh danh là “Sứ điệp từ trời” đã xuất hiện từ tháng 11 năm 2010 tại Châu Âu, và cho đến nay đã được quảng bá hầu như rộng khắp trên toàn thế giới. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã nghe nói hoặc đã từng đọc qua các “Sứ điệp từ trời”. Điều đó ít nhất cũng cho thấy tầm ảnh hưởng và tính chất thu hút của phong trào mới này. Điều đáng nói là có nhiều người đã tin và đang góp phần quảng bá cho các “Sứ điệp trời”. Riêng tại Việt Nam, phong trào “Sứ điệp từ trời” cũng đang rộ lên như một hiện tượng đáng quan ngại. Tại nhiều giáo xứ, người ta thấy xuất hiện các hội cầu nguyện Mân Côi, nhưng thực chất là hội quảng bá các “Sứ điệp từ trời”. Điểm nổi bật của các hội này là thái độ chống Đức Giáo hoàng, và đây cũng là một trong các chủ đề thường gặp trong các “Sứ điệp từ trời”. Nhiều tín hữu đã “lỡ” đọc các “Sứ điệp từ trời” thì cảm thấy hoang mang vì rơi vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan”. Nếu không tiếp tục đọc thì sẽ có nguy cơ bị án phạt như các sứ điệp đã đe dọa, còn nếu tiếp tục thì không biết các sứ điệp sẽ dẫn mình tới đâu. Bởi vậy, sau khi đã tìm hiểu các “Sứ điệp từ trời” và tham khảo một số bài viết được phổ biến trên mạng internet, chúng tôi muốn viết bài nghiên cứu này như một sự góp phần soi sáng vấn đề, và cũng để cung cấp ít nhiều tư liệu cho những vị có thẩm quyền hầu có thể thẩm định vấn đề cách khách quan.

Trong phần trích dẫn các sứ điệp, đôi khi vì yêu cầu chính xác của văn bản, chúng tôi phải dịch lại từ nguyên bản tiếng Anh thay vì lấy từ trang <> bằng tiếng Việt.

I. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ PHONG TRÀO “SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI”

1. Người sáng lập phong trào “Sứ điệp từ trời” là ai?

Phong trào “Sứ điệp từ trời” gắn với một cái tên mà hiện nay đã trở thành nổi tiếng: “Maria Lòng Chúa Thương Xót”[1]. Đây chính là người sáng lập phong trào. Thoạt đầu, hầu như không ai biết được được đích xác Maria Lòng Chúa Thương Xót là ai. Trên trang mạng chính thức của phong trào, nhân vật này đã tự giới thiệu mình là một phụ nữ Châu Âu, theo đạo Công Giáo, đã có gia đình, và là một doanh nhân. Theo bà, tên gọi “Maria Lòng Chúa Thương Xót” không phải tên thật, mà chỉ là một biệt danh. Bà cho biết rằng Chúa Giêsu muốn bà giữ kín danh tánh để bảo đảm sự an toàn cho gia đình, cũng như để người ta chỉ tập trung vào các sứ điệp mà thôi. Dầu vậy, cũng có người đã cố tìm hiểu xem bà là ai; và hiện nay người ta đã xác định được khá chắc chắn rằng bà là một phụ nữ Ái Nhĩ Lan, hiện sống tại thành phố Dublin. Thậm chí có người còn biết rõ tên tuổi thực của bà.

Theo Maria Lòng Chúa Thương Xót, Chúa Giêsu đã tỏ cho bà biết rằng bà là vị Sứ Giả thứ bảy, tức vị Thiên Sứ thứ bảy, được phái đến để mặc khải cho thế gian nội dung của các Ấn trong sách Khải Huyền. Đây là những Ấn mà chỉ mình Con Chiên Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, mới có quyền mở. Chính Ngài sẽ lần lượt mở các Ấn đó; và mỗi lần mở Ấn nào thì Ngài đều mặc khải cho bà để bà thông đạt lại cho người khác. Cũng vì vậy, Đức Giêsu đã xác định với bà rằng bà là vị ngôn sứ của thời cuối cùng (Sứ điệp ngày 13-07-2012).

Kể từ tháng 11 năm 2010, bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã liên tục nhận được các sứ điệp từ trời. Các sứ điệp này chủ yếu do Chúa Giêsu tỏ cho biết, nhưng cũng có khi do Chúa Cha hoặc do Đức Trinh Nữ Maria. Tính đến nay đã có hơn 1.100 sứ điệp khác nhau. Nội dung chính của các sứ điệp xoay quanh việc cảnh cáo thế giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, và tiên báo sự gần kề của ngày Chúa trở lại. Theo bà Maria, các sứ điệp nhằm chuẩn bị cho thế giới sẵn sàng chờ đón ngày Chúa trở lại, sau khi đã trải qua thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện. Cho đến nay, bà vẫn không ngừng nhận được các sứ điệp mới.

2. Việc quảng bá Phong trào Sứ điệp từ trời

Nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng, cho đến nay phong trào Sứ điệp từ trời đã được quảng bá rộng rãi trên toàn thế giới. Trang FaceBook “Chúa Giêsu đối với nhân loại” (Jesus to Mankind) của bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã thu hút khá nhiều người đọc. Tính đến nay, bà đã nhận được hơn 17.000 ý kiến yêu thích. Ngoài ra, bà còn lập trang mạng <> để quảng bá các sứ điệp của mình. Có một nhóm thiện nguyện viên người Việt đã dịch trang mạng này sang tiếng Việt và cập nhật liên tục, với tên gọi <>. Các sứ điệp đã công bố còn được sưu tập lại và xuất bản thành sách. Cho đến nay đã có ba tập sách (I, II và III) lần lượt được xuất bản với tựa đề “Sách sự thật” (The Book of Truth).

Nhờ trang mạng bằng tiếng Việt nói trên, ngay tại Việt Nam, có khá nhiều người, thậm chí cả ở vùng quê, đã biết đến phong trào này và thường xuyên theo dõi các sứ điệp mới trên trang mạng của phong trào. Tại nhiều giáo xứ, bắt đầu xuất hiện các nhóm cầu nguyện mệnh danh là “Hội cầu nguyện Mân Côi” nhưng thực chất là các nhóm quảng bá các sứ điệp từ trời. Thậm chí các sứ điệp từ trời còn được phổ biến trên một số tòa giảng. Hiện tượng này một mặt cho thấy tính chất lôi cuốn của phong trào mới, nhưng mặt khác cũng đồng thời là một hiện tượng đáng báo động cho các cơ quan có thẩm quyền trong Hội Thánh.
 

II. PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM SAI LẠC VỀ ĐẠO LÝ TRONG SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI

Như đã nói trên đây, nội dung chính của sác Sứ điệp từ trời xoay quanh ba chủ đề chính: cảnh cáo thế giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, loan báo sự gần kề của biến cố Chúa tái lâm. Nếu chỉ nhìn thoáng qua thì những nội dung ấy cũng chẳng có gì là mới lạ và cũng không đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ nội dung cụ thể của các sứ điệp, người ta thấy lộ ra rất nhiều điểm sai lạc về giáo lý. Điều nguy hiểm ở đây, đó là những điểm sai lạc này trộn lẫn với những giáo lý chân thực, tạo nên tình trạng “vàng thau lẫn lộn”, khiến những ai không tinh ý có thể dễ dàng nhiễm phải nọc độc của chúng. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn trong việc nêu lên những sai lầm tỏ tường và nghiêm trọng mà thôi. Để dễ nắm bắt vấn đề, chúng tôi phân chia các điểm sai lạc này thành những đề mục khác nhau tùy theo những khía cạnh liên quan. Tuy nhiên, việc sắp xếp này cũng chỉ có tính chất tương đối, vì các sai lạc trong khía cạnh này có thể cũng liên hệ đến khía cạnh khác, do mối liên hệ chặt chẽ của tổng thể các chân lý đức tin Kitô giáo.

1. Những điểm sai lạc liên quan đến Mặc Khải

a) Lập trường “duy Kinh Thánh” (sola scriptura). Đây là lập trường có nguốn gốc từ Phái Tin Lành do Luther khởi xướng. Cách chung, lập trường này cho rằng chỉ duy mình Kinh Thánh mới là quy chuẩn của đức tin. Những gì không trực tiếp bắt nguồn từ Kinh thánh thì không có giá trị ràng buộc về phương diện đức tin và luân lý. Lập trường này hiển nhiên cũng chối bỏ giá trị quy phạm của Thánh Truyền cũng như Quyền Giáo huấn của Hội Thánh. Một lập trường như thế đã được thể hiện dưới những hình thức khác nhau trong các Sứ điệp từ trời. Chẳng hạn, sứ điệp ngày 25-12-2010 tuyên bố như sau: “Bất kỳ giáo lý nào không bắt nguồn từ Kinh Thánh mà lại tự cho là có thẩm quyền công bố chân lý thì đều là dối trá. Đây là tội chống lại Ta [Chúa Giêsu] và là sự chống báng nặng nề đối với Ta và Chúa Cha Hằng Hữu của Ta”. Quan điểm này cũng được lặp lại trong sứ điệp ngày 13-09-2011 với những lời như sau: “Đừng bao giờ cho phép mình chấp nhận bất kỳ sự thật nào khác ngoài những điều có trong Kinh Thánh”.

Hẳn nhiên, một lập trường như thế đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh Công Giáo vốn nhìn nhận Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền làm nên một kho tàng đức tin duy nhất. Ngoài ra, đức tin Công Giáo cũng tin nhận Hội Thánh là thầy dạy chân lý, có thẩm quyền chính thức để giải thích những gì chứa đựng trong kho tàng Mặc khải được chính Chúa Kitô ủy thác cho Hội Thánh (xc. GLHTCG, số 80; 85).

b) Coi các mặc khải tư ngang hàng với Kinh Thánh. Một sai lầm nghiêm trọng khác của các Sứ điệp từ trời, đó là coi các mặc khải tư như là có giá trị ngang hàng với Kinh Thánh. Thực ra, việc thẩm định các sứ điệp của bà Maria có phải là mặc khải tư hay không, đó là điều còn phải xem xét. Tuy nhiên, xem ra bà Maria đã tự nhận những sứ điệp của mình là mặc khải tư; và thậm chí bà còn coi “cái gọi là mặc khải tư” này ngang hàng với Kinh Thánh.

Thật vậy, trong một số sứ điệp được được bà Maria phổ biến, người ta đọc thấy rằng Chúa Giêsu đã truyền cho bà viết một cuốn sách; cuốn sách này thực ra không phải do bà viết, nhưng là do chính Chúa viết. Cuốn sách đó có giá trị ngang với Kinh Thánh và là một phần của Kinh Thánh. Lời khẳng định này được lặp lại nhiều lần trong các sứ điệp khác nhau với những lời lẽ hơn kém. Chẳng hạn sứ điệp ngày 12-11-2010 nói như sau: “Con phải dồn hết tâm lực để viết cuốn sách. Cuốn sách này sẽ giúp cải biến cuộc đời nhiều người, sẽ cứu rỗi các linh hồn; và đây là điều đã được báo trước. Đúng vậy, cuốn sách là điều đã được tiên báo. Con là người viết. Ta là Tác giả. Con đừng ngạc nhiên hoặc choáng ngợp, vì đây là một trách vụ thiêng thánh, và con đã được chọn để làm việc này cùng với Ta. Con sẽ phải mất ba tháng để hoàn tất. Ta muốn con xuất bản cuốn sách trên toàn thế giới. Cuốn sách đó phải được phổ biến rộng khắp, đầy sức mạnh, và được hằng triệu người tìm đọc cũng như sách Kinh Thánh vậy. Này con gái của Ta, con có thể xuất bản cuốn sách dưới danh nghĩa ‘cuộc đối thoại với vị ngôn sứ bí mật’. Con cứ việc làm như thế” (có thể xem thêm sứ điệp ngày 09-02-2013).

Người viết ra sứ điệp trên đây hẳn đã hiểu không đúng về bản chất của Kinh Thánh cũng như vị thế của mặc khải tư. Kinh Thánh là chính Lời Thiên Chúa được mặc khải cho con người và được ghi lại dưới tác động linh hứng của Thánh Thần. Do vậy, chính Thiên Chúa là tác giả thực sự của Kinh Thánh. Về phần bà Maria, việc bà tuyên bố cuốn sách bà sẽ viết có Thiên Chúa là tác giả thì cũng đồng nghĩa với việc cho rằng cuốn sách đó được viết ra với ơn linh hứng chẳng khác gì Kinh Thánh vậy. Đây quả là một sự mạo nhận có tính chất phạm thượng.

Theo giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, mặc khải công đã nên hoàn trọn cách viên mãn cùng với sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô. Kể từ đây, nhân loại không còn phải trông đợi mặc khải nào khác. Bởi đó, những gì liên quan đến đức tin được Thiên Chúa tỏ bày sau này cho các thánh hay một ai đó thì được gọi là mặc khải tư. Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo xác định như sau: “Theo dòng lịch sử, đã xuất hiện những điều gọi là ‘mặc khải tư’, một số trong đó được thẩm quyền của Hội Thánh công nhận. Tuy vậy, những mặc khải đó không thuộc kho tàng đức tin. Chức năng của chúng không phải là “cải thiện” hoặc “bổ sung” mặc khải vĩnh viễn của Đức Kitô, nhưng để giúp người ta, vào một thời điểm lịch sử nào đó, sống mặc khải của Đức Kitô cách trọn vẹn hơn” (số 67).

2. Những sai lầm liên quan đến Đức Kitô

a) Sai lầm về mục đích của việc nhập thể. Sứ điệp ngày 24-12-2010 đã bộc lộ một quan niệm sai lạc về mục đích của việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Bằng một lối diễn tả mơ hồ, sứ điệp này cho rằng việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người và cuối cùng chịu chết trên thập giá chỉ nhằm khai lòng mở trí, hay thức tỉnh lương tâm của con người để họ nhận biết ơn cứu độ mà Chúa Cha từ ngàn xưa đã hứa ban cho toàn thể nhân loại. Như vậy, việc nhập thể và cái chết của Đức Giêsu chỉ có giá trị giáo huấn và gương mẫu chứ không đem lại hiệu quả là ân sủng tha tội và tái sinh con người vào đời sống mới. Đây quả là một cái nhìn thiếu sót về công trình cứu độ của Đức Giêsu. Có thể trưng ra đây những lời tiêu biểu trong sứ điệp này như sau: “Việc Ta đến trần gian đã được sắp đặt như một cơ hội cuối cùng để thức tỉnh thế gian, ngõ hầu mọi người nhận ra rằng Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Vai trò của Ta là để chỉ cho các con con đường lên Trời, nhờ vào giáo huấn và cái chết của Ta trên thập giá”.

b) Quan niệm sai lạc về cuộc Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp của bà Maria còn quảng bá một quan niệm hết sức sai lạc về biến cố Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp này cho rằng sau khi thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện kết thúc thì sẽ là thời Chúa Kitô tái xuất hiện trên địa cầu. Tuy nhiên, cuộc tái lâm này chưa phải đánh dấu thời cùng tận của thế giới để rồi khai mào cảnh “Trời mới đất mới” kéo dài đến thiên thu vạn đại. Trái lại, theo sứ điệp của bà Maria, thời kỳ khai mào cùng với cuộc Quang lâm của Chúa cũng chỉ kéo dài 1.000 năm. Đó là thời kỳ mà Chúa Kitô cai quản địa cầu, và quyền lực Satan bị bứng tận gốc khỏi trần gian. Đây chính là sự mô phỏng lại lạc thuyết “ngàn năm” vốn đã bị Hội Thánh phi bác từ xưa. Thuyết “ngàn năm” này được thể hiện rõ ràng trong sứ điệp ngày 20-05-2011, trong đó có những đoạn như sau:

“Nhiều bối rối tồn tại trên thế giới liên quan đến biến cố này. Nhiều người tin rằng Cuộc Quang Lâm của Ta chỉ ra rằng thời tận cùng của thế giới đã đến. Nhưng không phải như vậy, thay vào đó Cuộc Quang Lâm của Ta có nghĩa nói về thời kỳ cuối khi Satan và thuộc hạ của hắn, những kẻ đã tạo ra những đau khổ không kể xiết trên thế giới, sẽ bị trục xuất khỏi Trái Đất trong vòng 1.000 năm.



Con gái của Ta, Ta sẽ cai trị trái đất trong 1.000 năm. Hãy biết chắc rằng giờ đây Ta đang trông coi các biến cố khi chúng xảy ra trên thế giới. Giờ đây Ta đã chuẩn bị đường lối cho Vương Quốc Mới của Ta trên trái đất và thời gian đó đã gần đến rồi, gần hơn rất nhiều so với những gì người ta có thể nhận ra. Hãy hân hoan vì tin tức này sẽ được tất cả mọi người đón nhận. Đau khổ trên thế giới này sẽ chấm dứt. Một nguồn tình yêu và vinh quang để sẻ chia cho tất cả con cái của Ta, sẽ trào dâng”.

Cần lưu ý rằng thuyết “ngàn năm” này từng bị các vị thánh tiến sĩ thời danh như Augustinô, Tôma Aquinô lên tiếng phi bác. Huấn quyền của Hội Thánh cũng minh nhiên kết án lạc thuyết này, như thấy trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo: “Sự đánh lừa của tên Phản Kitô đã được phác họa trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Mêssia, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm, nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Mêssia đã bị tục hóa ‘đồi bại tự bản chất’” (số 676).

3. Những điểm sai lạc liên quan đến Hội Thánh

a) Chối bỏ quyền giáo huấn của Hội Thánh. Bằng những cách khác nhau, bà Maria đã chối bỏ thẩm quyền bất khả ngộ của Hội Thánh xét như thầy dạy chân lý. Như chúng tôi đã phân tích trên đây, qua lập trường “duy Kinh Thánh”, bà Maria cũng đồng thời hoặc ít nhất là gián tiếp phủ nhận quyền giáo huấn của Hội Thánh. Sự phủ nhận quyền giáo huấn có tính quy phạm của Hội Thánh dường như còn được diễn tả cách mặc nhiên qua việc bà chủ trương theo kiểu cào bằng rằng “…không một ai trong các con xứng đáng để phán xét hoặc tra xét về người khác. Không ai có quyền hạn hoặc hiểu biết thiêng liêng để đưa ra bất cứ sự đánh giá nào về đạo đức nơi người khác” (Sứ điệp ngày 06-04-2011).

Mặt khác, bà Maria còn đưa ra những lời nhận định sai lạc hoặc những lời cáo buộc thiếu căn cứ về cách thức Hội Thánh thực thi vai trò giáo huấn. Trong nhiều sứ điệp và cụ thể là sứ điệp ngày 26-01-2012, bà Maria xem ra muốn ám chỉ rằng Tòa Thánh đang bị một số phần tử xấu lũng đoạn, cho nên những gì mà các cơ quan thẩm quyền của Tòa Thánh giảng dạy chỉ là bóp méo sự thật về giáo huấn của Chúa; những canh tân Phụng vụ, nhất là nghi thức thánh lễ chỉ là phương pháp phượng tự Công Giáo bất xứng, xúc phạm đến Chúa Giêsu và Chúa Cha. Cũng trong sứ điệp này, bà còn cho rằng Hội Thánh không dạy sự thật; Hội Thánh đã không bao giờ giảng dạy về tính chất nghiêm trọng của tội lỗi (xem thêm các sứ điệp ngày 18-02-2013; ngày 30-09-2013). Thực ra, bà Maria nói như thế tức là bà đã không hiểu rằng Hội Thánh không chỉ là cơ chế hữu hình được vận hành bởi con người, mà trên hết còn là một thực tại thiêng thánh được Thánh Thần hướng dẫn.

b) Chối bỏ quyền của Hội Thánh trong việc quản lý và phân phát các mầu nhiệm thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 31-01-2012 đã cho thấy một quan niệm sai lạc về việc ban các ân xá. Theo sứ điệp này, việc ban ân toàn xá không phải do Hội Thánh mà là do chính Chúa Giêsu ban cho một số người được tuyển chọn để kêu gọi người khác hoán cải. Việc nhận ơn toàn xá này đi kèm với điều kiện phải đọc một kinh đặc biệt trong bảy ngày liền. Kinh này cũng được xác định rõ trong sứ điệp. Thực ra, những điều nói trong sứ điệp này thực chất chỉ là một sự mạo danh Chúa Giêsu để tự dành cho mình quyền ban ân xá, chứ Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm điều đó.

Thật vậy, những điều trong sứ điệp này hoàn toàn trái ngược với ý định của Chúa Giêsu trong việc thiết lập Hội Thánh như là trung gian của ơn thánh (Mt 16,19; 18,18). Chúa Giêsu không ủy thác cho một thẩm quyền nào khác ngoài Hội Thánh được ban các ân xá cũng như quy định các điều kiện đi kèm. Chắc hẳn Chúa Giêsu sẽ không phá đổ hay làm ngược lại những gì Ngài đã thiết lập. Về điểm này, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy như sau: “Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội đó đã được tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được thẩm quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu chuộc, Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và các thánh” (số 1471).

c) Đưa ra những phán đoán sai lạc về các Đấng kế vị Thánh Phêrô. Trước khi xảy ra biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI tuyên bố từ nhiệm, bà Maria, trong nhiều sứ điệp, đã từng tiên báo rằng Đức Giáo hoàng sẽ bị hạ bệ bởi một âm mưu đen tối trong Giáo triều Rôma (chẳng hạn các sứ điệp ngày 18-01-2012; ngày 11-02-2012; ngày 20-03-2012; ngày 26-05-2012). Nếu các sứ điệp trên đây tiên báo việc Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI kết thúc sứ vụ đại diện Chúa Kitô là do một thế lực xấu xa cưỡng ép ngài, thì chúng ta sẽ phải hiểu sao về những lời tuyên bố của ngài về lý do của việc từ nhiệm? Trong tuyên bố ngày 11-02-2013, ngài đã xác định việc từ nhiệm là do tuổi cao và sức khỏe kém, và việc từ nhiệm là một quyết định tự do. Như vậy, phải chăng chúng ta phải tin vào các sứ điệp của bà Maria để kết tội Đức Giáo hoàng là một kẻ dối trá? Hay phải nói ngược lại là các sứ điệp của bà Maria chỉ là trò dự đoán đầy tà ý và cảm tính?

Bên cạnh đó, bà Maria còn phủ nhận sự chính đáng của việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô từ nhiệm cũng như tính hợp thức của vị Giáo hoàng sẽ kế vị. Trong sứ điệp ngày 22-07-2013 có những lời lẽ như sau: “Chỉ có một vị chủ chăn của Giáo Hội trên Trái Đất được Con Mẹ trao quyền, người vẫn cứ phải là Giáo Hoàng cho đến chết. Bất cứ ai khác là kẻ giành quyền ngồi trên Ngai Tòa Thánh Phêrô đều là kẻ mạo danh”.

Đang khi đó, việc các vị Giáo hoàng từ nhiệm, mặc dù hiếm nhưng cũng đã từng xảy ra trong lịch sử Hội Thánh. Cho nên, đó không phải là điều bất khả. Chính bộ Giáo luật 1983, điều 332, §2 dự liệu như sau: “Nếu xảy ra trường hợp Đức Giáo hoàng Rôma từ nhiệm, việc từ nhiệm phải được tự do và phải được bày tỏ cách hợp thức thì mới hữu hiệu, nhưng không cần được bất cứ ai chấp nhận”.

Có một điều mà ai đọc các sứ điệp của bà Maria cũng đều dễ nhận thấy, đó là sự chống báng mạnh mẽ nhắm vào người kế vị Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, tức là Đức Giáo hoàng đương kim Phanxicô. Chiều hướng này xem ra cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhóm cầu nguyện do bà phát động. Trong nhiều sứ điệp khác nhau, bà đã dùng những lời lẽ chống báng rất gay gắt đối với Đức Phanxicô.

Từ trước khi xảy ra biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm, trong sứ điệp ngày 12-04-2012, bà Maria đã tiên báo một người sẽ được bầu lên thay Đức Bênêđictô. Tuy nhiên, bà phủ nhận tính hợp pháp của cuộc bầu vị Giáo hoàng mới. Bà gọi cơ mật viện Hồng y bầu giáo hoàng mới là những người theo bè Tam điểm, là tổ chức độc ác của Satan. Bà gọi vị Giáo hoàng mới là ngôn sứ giả, là kẻ mạo danh. Điều này nằm trong cùng một chiều hướng với việc bà cho rằng Đức Bênêđictô XVI là vị giáo hoàng đích thực cuối cùng trên trần gian. Trong nhiều sứ điệp khác nữa, bà thường xuyên lặp đi lặp lại cụm từ “ngôn sứ giả” được gán cho người kế vị Đức Bênêđictô. Cũng có khi bà gán cho vị này những “nhãn hiệu” xấu xa khác, như “đầu của Con Mãng Xà” (sứ điệp ngày 13-11-2012); “kẻ mạo danh” (sứ điệp ngày 22-07-2013); “cái sừng nhỏ, kẻ huênh hoang tự đắc ngồi trên Tòa Phêrô” (sứ điệp ngày 18-02-2013); “con của Satan…kẻ mạo danh trên ngai tòa Phêrô…tên phản Kitô” (sứ điệp ngày 25-02-2013); và còn nhiều điều khác tương tự.

Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria một mặt cho thấy bà không tin rằng Thánh Thần của Chúa Kitô vẫn đang hiện diện và hoạt động trong Hội Thánh, không ngừng hướng dẫn Hội Thánh đạt đến chân lý toàn vẹn của Chúa Kitô. Mặt khác, thái độ đó còn cho thấy một cái nhìn giản lược về bản chất của Hội Thánh vốn chỉ còn là một cơ chế phàm trần của những tranh giành phe nhóm, những toan tính kiêu căng, mưu đồ thống trị… Cần nhớ rằng Hội Thánh tiên vàn là một mầu nhiệm. Hội Thánh dù bao gồm các tội nhân, nhưng tự bản chất là thánh thiện vì được chính Đức Kitô thánh hóa để trở thành Hiền Thê không tì ố của Ngài (xc. Cđ. Vat. II, Hiến chế về Giáo Hội, số 1-8). Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria có thể coi là một dạng thức của tội ly giáo, khi bà không ngừng rêu rao rằng vị Giáo hoàng đương nhiệm là ngôn sứ giả, là Giáo hoàng mạo danh… (xc. GLHTCG, số 2089).

4. Những điềm sai lầm về luân lý

a) Sai lầm trong quan niệm về luân lý tính dục. Trong sứ điệp ngày 06-04-2011, bà Maria tỏ ra dung túng cho một lối sống tự do về tình dục. Nội dung chính của sứ điệp này xoay quanh việc đừng lên án những người khác tôn giáo, tín ngưỡng hay khác về những sở thích tính dục (sexual preferences). Hẳn nhiên, cần phân biệt giữa tội lỗi và con người. Chúng ta không có quyền lên án các tội nhân, cho dù họ phạm những tội nặng nề nhất. Thế nhưng, cách diễn tả mơ hồ của sứ điệp khiến người đọc có cảm tưởng rằng cũng không nên phê phán sự sai trái của những xu hướng lệch lạc về tính dục. Điều đáng nói ở đây là cụm từ “sở thích về tính dục” được lặp đi lặp lại nhiều lần như một sự nhấn mạnh. Cách dùng cụm từ này thật đáng ngờ! Xem ra nó hàm ý rằng những xu hướng tính dục như đồng tính chẳng hạn, cũng chỉ nên coi là chuyện sở thích cá nhân chứ không phải là một sự lệch lạc về luân lý. Thế nhưng, đây lại là điều đi ngược lại với Giáo lý của Hội Thánh vốn coi các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự, và nghịch với luật tự nhiên (xc. GLHTCG, số 2357).

b) Quan niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình. Bà Maria còn đưa ra một quan niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình khi bà lên án theo cách cào bằng vô điều kiện mọi hình thức giết người, chỉ trừ ra hành động tự vệ. Sứ điệp ngày 26-01-2012 có những lời như sau: “Ngươi không được giết người có nghĩa là ngươi không được giết người khác. Điều này không có ý nói về sự tự vệ nhưng về bất kỳ trường hợp nào khác. Không ai được biện minh cho việc giết người - dù là phá thai, hành hình hay trợ tử. Không người nào được phép” (sứ điệp ngày 15-07-2011 cũng có những lời tương tự).

Hẳn nhiên, Hội Thánh luôn dạy rằng phá thai, trợ tử và những hành động giết người cố ý và không có lý do chính đáng đều là những tội ác nghiêm trọng về luân lý. Tuy nhiên, đối với án tử hình, mặc dù Hội Thánh luôn kêu gọi các chính quyền thực thi lòng khoan dung và giảm thiểu hết mức có thể việc áp dụng án tử hình, nhưng Hội Thánh vẫn luôn công nhận quyền chính đáng của các chính quyền dân sự trong việc áp dụng án tử hình cho những tội phạm hết sức nguy hiểm cho xã hội mà xét thấy không còn cách chọn lựa nào khác. Như vậy, việc áp dụng án tử hình không phải luôn luôn là hành động vô luân, nhưng là điều chính đáng trong một số hoàn cảnh nhất định. Giáo lý này thuộc về truyền thống lâu đời của Hội Thánh, từng được các vị thánh Tiến sĩ thời danh giảng dạy, và nhất là được khẳng định trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo như sau: “Giáo huấn truyền thống của Hội Thánh, sau khi đã xác minh đầy đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân, không loại trừ việc kết án tử hình, nếu đây là con đường khả thi duy nhất để bảo vệ hữu hiệu mạng sống con người khỏi bị xâm phạm cách bất công” (số 2267).

c) Quan niệm sai lạc về ơn tha tội. Trong sứ điệp ngày 09-07-2012, bà Maria còn quảng bá một quan niệm sai lạc về ơn tha tội khi cho rằng người nào đọc kinh đọc đặc biệt (do bà chỉ dẫn) trong 7 ngày liên tục thì được ơn xá giải mọi tội lỗi. Điều này hẳn nhiên đi ngược với giáo lý của Hội Thánh vốn cho rằng ơn tha tội được ban thông thường bằng việc lãnh nhận bí tích giao hòa, hoặc trong trường hợp khẩn cấp, bằng việc ăn năn tội cách trọn, chứ không chỉ đơn thuần bằng việc đọc bất kỳ kinh đọc nào (xc. GLHTCG, số 1446; 1452).

Cũng trong sứ điệp nói trên, bà còn đề xuất một kinh đọc đặc biệt khác để xin ơn tha tội cho những người chết trong tình trạng mắc tội trọng. Điều này rõ ràng đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh vốn dạy rằng những ai chết trong tình trạng mắc tội trọng thì sẽ rơi vào sự hư mất đời đời. Do vậy, tất cả những sự hy sinh, công phúc, lời cầu nguyện của người sống cũng không làm thay đổi được phần số của những người đã chết ấy (xc. GLHTCG, số 1035).

5. Những điểm sai lạc về kỷ luật bí tích

Trong các sứ điệp, bà Maria còn chủ trương những điều sai lạc liên quan đến cách thức thực hành hoặc lãnh nhận các bí tích. Hẳn nhiên, Hội Thánh không có quyền thay đổi bản chất của các bí tích, vì các bí tích là do Chúa Kitô thiết lập. Tuy nhiên, Hội Thánh, xét như là người quản lý các Bí Tích và thừa tác viên của ơn cứu độ, có thẩm quyền đưa ra những quy định về hình thức cử hành các bí tích. Những quy định này vì không đụng chạm đến bản chất của Bí tích, nên có thể được canh tân khi cần thiết để thích ứng với những hoàn cảnh mới.

Ở đây, chúng tôi muốn nói đến hai quy định cụ thể của Hội Thánh trong việc lãnh nhận các bí tích. Đó là việc cho phép tín hữu rước lễ bằng tay và luật buộc xưng các tội trọng một năm ít là một lần. Việc Hội Thánh cho phép tín hữu rước lễ bằng tay được xác định rõ ràng trong các văn kiện sau đây: Tông thư Ecclesia de Eucharistia của Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Huấn thị Redemptionis Sacramentum của Bộ Phụng tự và Bí tích. Còn việc xưng các tội trọng một năm ít là một lần thì được xác định trong Giáo luật 1983, điều 989.

Đáng tiếc là các sứ điệp của bà Maria đã minh nhiên phủ nhận tính hợp pháp của hai quy định trên đây của Hội Thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 06-07-2011 nói như sau: “Bí Tích Thánh Thể Chí Thánh phải được đón nhận trên lưỡi và không được phép đón nhận một cách ô nhơ bởi bàn tay con người. Tuy nhiên, điều này chính là những gì các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đã và đang thực hiện. Các lề luật này đã không được thông qua bởi Ta trong thần khí. Các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đã bị dẫn dắt trên một con đường không phù hợp với các Giáo Huấn từ các tông đồ của Ta”.

Còn sứ điệp ngày 09-07-2012 lại khẳng định rằng: “Đối với những người Công Giáo, các con phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải hai tuần một lần nếu các con muốn tiếp tục sống trong Ân sủng”. Đây vừa là một quan niệm sai lạc về tình trạng ân sủng vì cho rằng tình trạng ân sủng không tùy thuộc vào tình trạng sạch tội trọng và lòng mến Chúa, nhưng tùy thuộc vào nhịp độ nhất định của việc thực hành bí tích. Mặt khác, nó còn chuẩn hóa một lối thực hành bí tích trái với quy định chung của Hội Thánh.
 

III. THẨM ĐỊNH VỀ PHONG TRÀO SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI

1. Phản ứng từ phía Giáo quyền

Kể từ khi phong trào “Sứ điệp từ trời” khai sinh và được phổ biến rộng rãi, nhiều vị Giám mục thuộc các châu lục khác nhau đã lên tiếng cảnh báo về sự nguy hiểm cũng như sự lầm lạc của phong trào này. Có thể kể ra một số vị tiêu biểu như:

Đức Tổng Giám mục Denis J Hart, Giáo phận Melbourne, Úc;

Đức Giám mục Fabbro, Giáo phận London, Ontario, Canada;

Đức Giám mục Stephen Secka, Giám mục phụ tá Giáo phận Spisska, Slovakia;

Đức Giám mục Richard. J. Malone, Tổng Giáo phận Buffalo, NY;

Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge, Giáo phận Brisbane, Úc;

Đức Giám mục Greg O’Kelly SJ , Giáo phận Port Pirie, Nam Úc;

Đức Giám mục Andreas Laun of Salzburg, Giám mục Phụ tá Giáo phận Áo.[2]

Vì bà “Maria Lòng Chúa Thương Xót” được cho là người đang sống tại Dublin, nên cuối cùng Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo Phận Dublin, tức vị chủ chăn có thẩm quyền trực tiếp đối với bà, cuối cùng cũng đã lên tiếng. Mới đây trong một bản Tuyên cáo ra ngày 16-04-2014, Đức Tổng Giám mục Diarmuid Martin tuyên bố như sau:

Tòa Tổng Giám mục Dublin đã nhận được nhiều thỉnh nguyện thư xin xác minh về tính chân thực của những điều tự nhận là thị kiến và sứ điệp do một người tự xưng là “Maria Lòng Chúa Thương Xót” nhận được, và người này được cho là đang sống tại Tổng Giáo phận Dublin.

Nay Tổng Giám mục Diarmuid Martin muốn khẳng định rằng các sứ điệp này cũng như các thị kiến đi kèm không được Hội Thánh chuẩn nhận, và nhiều điều trong các bản văn đi ngược lại với thần học Công Giáo.

Vậy, không được phổ biến hay sử dụng các sứ điệp này trong các hội đoàn thuộc Hội Thánh Công Giáo.[3]

2. Một vài nhận định chung thay lời kết

Sau khi đã tìm hiểu phong trào “Sứ điệp từ trời”, chúng tôi nhận thấy rằng các bản văn tự nhận là “sứ điệp từ trời” không thực sự phản ảnh giáo lý tinh tuyền của Hội Thánh Công Giáo, nhưng chỉ là một thứ giáo thuyết hỗn tạp được góp nhặt hoặc chịu ảnh hưởng từ những nguồn mạch khác nhau, vừa là Công Giáo, Tin Lành, và cả khuynh hướng hành đạo theo nghi lễ cổ điển trước Công đồng Vaticanô II. Mặt khác, các sứ điệp của bà Maria còn chứa đựng rất nhiều điều bất nhất hoặc mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi thì bà chủ trương phải khoan dung với những người “khác về sở thích tính dục”, khi khác lại lên án cách gay gắt những cuộc hôn nhân đồng tính; khi thì bà chủ trương phải cầu nguyện cho những người đã chết trong tình trạng mắc tội trọng, khi khác bà lại cho rằng hình phạt hỏa ngục là đời đời, không thay đổi được (sứ điệp ngày 12-01-2014). Trong các sứ điệp, bà Maria đã từng cảnh báo về một “thứ tôn giáo mới phá hoại Hội Thánh”, do một số phần tử xấu trong Giáo triều đang tìm cách gầy dựng (chẳng hạn sứ điệp ngày 20-07-2012). Phải chăng lời kết án ấy trước tiên đã ứng nghiệm vào chính cái giáo thuyết hỗn tạp mà bà đang ra sức phổ biến?

Có nhiều yếu tố khiến người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp từ trời do bà Maria phổ biến. Trước hết là sự ẩn danh của bà. Mặc dù sự ẩn danh này đã được bà giải thích lý do, nhưng xem ra lý do bà đưa ra không thực sự thuyết phục. Trong phần lớn các trường hợp, sự ẩn danh thường đi đôi với việc không dám nhận trách nhiệm cũng như những hệ lụy về những gì mình nói hoặc làm. Một lá thư nặc danh thường không được coi là có giá trị. Trong lịch sử Hội Thánh, những nhà thần bí, những người nhận mặc khải tư chân chính không bao giờ ẩn danh, mà trái lại, họ sẵn lòng chịu thử thách, hiểu lầm, nghi kỵ, thiệt thòi vì những gì họ nói ra, bởi vì họ thực sự xác tín về những gì mình nói.

Yếu tố thứ hai khiến người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp, đó là những lời tiên báo của bà Maria thường không ứng nghiệm. Cũng có khi những lời tiên báo đó xem ra ứng nghiệm, nhưng chỉ ứng nghiệm cách nửa vời, như trong trường hợp bà tiên báo về việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm mà chúng tôi đã phân tích trên đây. Còn những gì bà tiên báo về người kế vị Đức Bênêđictô XVI thì hoàn toàn ngược lại với những gì người ta đang chứng kiến nơi vị Giáo hoàng đương kim, Đức Phanxicô. Nếu quả thực các sứ điệp của bà phát xuất từ Thiên Chúa thì hẳn là không thể tiên báo những điều viển vông như vậy.

Yếu tố sau cùng khiến người ta có đủ cơ sở để phủ nhận tính khả tín của các sứ điệp do bà Maria quảng bá, đó là những điểm sai lầm nghiêm trọng về đạo lý chất chứa trong các sứ điệp của bà. Thông thường Hội Thánh rất cẩn trọng trong việc xác định những mặc khải tư nào được coi là chân thực; và một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu được dựa vào để thẩm định, đó là mặc khải tư ấy không bao hàm những điều sai lạc đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Chỉ nguyên tiêu chí này cũng đủ cho thấy những sứ điệp tự nhận là “từ trời” hay “mặc khải tư” của bà Maria chỉ là ngụy tạo. Những sứ điệp đó không đến từ Thiên Chúa, mà chỉ là sản phẩm của con người. Điều tai hại là chính người tạo ra các sứ điệp ấy lại gán cho chúng một giá trị ràng buộc gần như tuyệt đối mà tự thân chúng không có. Điều này đã gây hoang mang cho không ít các tín hữu đơn thành: có buộc phải tin các “sứ điệp từ trời” hay không? Nếu không tin sẽ phải chuốc lấy những tai họa hay những hình phạt khủng khiếp sẵn sàng ập xuống. Còn nếu tin thì sẽ kéo theo bao nhiêu hệ lụy thực hành do các sứ điệp đề xướng; và rồi, liệu làm như thế có rơi vào tội rối đạo hay không? Bằng ấy câu hỏi đặt ra cũng là lời thỉnh nguyện để các cơ quan thẩm quyền trong Hội Thánh địa phương sớm đưa ra câu trả lời chính thức để soi sáng cho các tín hữu có được sự lựa chọn đúng đắn trong vấn đề này.



[1] Tên tiếng Anh là “Maria Divine Mercy”. Trong trang mạng <>, tên này được dịch sang tiếng Việt là “Maria Tông Đồ Lòng Chúa Xót Thương”.

[2] Có thể tham khảo thêm ở trang <>

[3] Nguyên bản tiếng Anh trong trang mạng chính thức của Tổng Giáo phận Dublin.

Tác giả: Lâm Văn Sỹ, OP.
Nguồn: giaolyductin.net

Sunday, May 4, 2014

Có Được Biến Lễ Tang Thành Lễ Cưới Hay Lễ Phong Thánh Không?

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tôi phải viết bài này vì đã được chứng kiến một vài việc xét thấy không phù hợp với giáo lý và niềm tin của Giáo Hội về việc cử hành lễ tang (funeral mass) cho ai đã ly trần. Tôi cần nói để giáo dân khỏi hoang mang khi có thể còn phải chứng kiến một việc tương tự không phù hợp với văn hóa Việt Nam và quan trọng hơn là giáo lý của Giáo Hội về việc cầu nguyện cho những người đã chết.

Thật vậy, như tôi đã có đôi lần viết rằng lễ tang (Funeral mass) cho bất cứ ai ly trần- dù là giáo dân, hay linh mục, Giám mục và cả Đức Giáo Hoàng nữa, thì cũng không bao giờ là lễ cưới hay lễ phong thánh (canonization) cho ai, dù cho biết rằng người quá cố là người đã sống một đời sống đạo đức thánh thiện đáng được hưởng phúc Thiên đàng theo nhãn quan con người. Phải nói như vậy, vì không ai có thể biết được Chúa phán xét ra sao cho một người đã ly trần, kể cả cho những người đã tự tử chết, hoặc chết mà không kịp được sức dầu và lãnh phép lành Tòa Thánh.

Vì Giáo Hội không biết được số phận đời đời của họ, nên chỉ dạy các tín hữu phải cầu nguyện cho những linh hồn đã ly trần mà thôi, dù người đó đã sống tốt lành hay bê bối ra sao, trước con mắt của người đời..Nghĩa là, ta không thể phán đoán ai đã được lên Thiên đàng rồi nên khỏi cần cầu nguyện cho họ nữa, hoặc ai đã sa hỏa ngục rồi nên cũng không cần cầu nguyện nữa.

Nhưng thực tế đã cho thấy là có một số linh mục đã biến lễ tang thành lễ phong thánh hay lễ cưới. Biến lễ tang thành lễ phong thánh, khi giảng rằng người này đã sống quá tốt lành nên chắc chắc đã được vào thiên đàng hưởng Thánh nhan Chúa rồi ! Nếu biết chắc như vậy, thì dâng lễ cầu nguyện cho họ làm gì nữa? Thật là điều không cần thiết, vì có giáo lý nào dạy dâng lễ cầu cho một ông thánh hay bà thánh nào trên Thiên Đàng đâu ??? hay chỉ có lễ kinh (feast or memorial) một hay nhiều vị thánh mà Giáo Hội đã tuyên phong lên hàng hiển thánh mà thôi.

Thử hỏi:  có ai sống thánh thiện hơn các Đức Giáo Hoàng ? Nhưng khi một vị qua đời thì Giáo Hội để tang trong 9 ngày và dâng lễ cầu hồn cho, chứ chưa hề tức khắc phong thánh cho ai bao giờ.

Có phong thánh cho ai thì cũng phải chờ một thời gian dài ngắn và đòi hỏi một số điều kiện như có 3 phép lạ được kiểm chứng nhờ cầu xin vị đã ly trần mà Chúa ban cho ai cầu xin, cũng như có đủ bằng chứng về đời sống thánh thiện của vị đó. Như vậy, dứt khoát không ai được tự ý phong thánh cho người đã ly trần trong một tang lễ, khi giảng rằng người quá cố - mà xác còn đang nằm trong nhà thờ đây- đã vào thiên Đàng rồi, vì khi còn sống đã làm biết bao việc từ thiện, giúp xây nhà thờ, nhà Dòng.v.v. Giảng như vậy chỉ có tác dụng đề cao người chết để làm vui lòng cho thân nhân còn sống mà thôi, nhưng đã đi vượt khỏi quyền phong thánh của Giáo Hội.

Lại nữa, trong một tang lễ mà tôi tham dự đồng tế, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nghe linh mục chủ tế là con của người đã ly trần, đã biến lễ tang của cha mình thành lễ cưới khi giảng rằng : hôm nay là ngày vui mừng vì cha tôi được vào dự bàn tiệc với rượu ngon và thịt béo, theo lời ngôn sứ I-saia nói về Tiệc cánh chung như sau:

"Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc
Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon
Thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế
Trên núi này Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân
...
Ngày ấy, người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta
Chúng ta trông đợi Người và đã được Người thương cứu độ
Chính Người là ĐỨC CHÚA chúng ta từng đợi trông
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ." (Is 25: 6- 9)

Lời ngôn sứ trên đây chỉ có ý nói về ngày sau hết khi Thiên Chúa mở tiệc khoản đãi những ai được cứu độ để vào dự bàn tiệc Nước Trời đã dọn sẵn cho họ. Nhưng có biết bao người đã từ chối không tham dự viện lý do này, lý do khác để khước từ lời mời như ta đọc thấy trong dụ ngôn "Tiệc cưới" của Tin Mừng Thánh Matthêu(Mt 22: 1-14; Lc 14: 15- 24)

Nghĩa là không phải tất cả mọi người, sau khi chết, đều đương nhiên được vào dự Tiệc "với rượu và thịt ngon" như ngôn sứ I-saia nói trên. Đó chỉ là điều mong muốn của Thiên Chúa "Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biêt chân lý" (1 Tm 2 : 4).

Chúa mong muốn như vậy vì Chúa là tình thương và khoan dung tha thứ. Nhưng con người vẫn có tự do để đáp lời mời gọi của Chúa vào dự tiệc cưới đã dọn sẵn hay khước từ lời mời đó vì còn quá quyến luyến những lợi lại và vui thú tội lỗi chóng qua ở đời này. Vì thế, bàn tiệc Nước Trời không đương nhiên dọn sẵn cho hết mọi người sau khi chết trong thân xác, mà chỉ dọn sẵn cho những ai có thiện chí muốn vào tham dự qua quyết tâm từ bỏ những quyến rũ của thế gian và cám dỗ của ma quỉ khi sống trên trần thế này.

Nghĩa là nếu người ta không quyết tâm tìm và yêu mến Chúa, trên hết mọi sự để xa tránh tội lỗi và sống theo đường lối của Chúa, thì họ đã từ chối lời mời của Chúa vào dự "bàn tiệc Nước Trời như những khách được mời đã viện đủ lý do để không đến dự tiệc cưới của con vua trong dụ ngôn tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã kể trong Tin Mừng Thánh Matthêu 22 và tương tự trong Luca chương 14.

Nhưng ai là người có thiện chí muốn sống theo đường lối của Chúa để cuối cùng được vào dự "Tiệc Nước Trời" thì chỉ có Chúa biết và phán đoán đúng mà thôi. Chúng ta hoàn toàn không biết được nên chỉ biết cầu nguyện cho những người đã ly trần như Giáo Hội dạy mà thôi.

Lại nữa, trong mọi nền văn hóa nhân loại, cái chết là điều đau khổ nhất cho thân nhân còn sống, nên thương khóc người thân đã ra đi là điều tự nhiên phù hợp với nhân tính và đức tin. Chính Chúa Giêsu, khi mang thân phận con người, cũng đã cảm thông sự đau khổ này, nên khi nghe tin người bạn của Chúa là Laza rô chết, Chúa đã đến trước mồ của anh và đã "thổn thức trong lòng" khi thấy Maria, chị của Lazarô khóc và những người do thái đi với cô cũng khóc.

Nhưng Chúa không nói với họ là "hãy vui mừng lên vì La za rô đã vào dự bàn tiệc "Nước Trời với rượu và thịt ngon" rồi. Ngược laị Chúa đã khóc hay thổn thức trong lòng và nói với Mac-ta rằng: "Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống." (Ga 11: 25)

Sau đó Chúa đã truyền cho La za rô chỗi dậy, ra khỏi mồ, dù đã nằm chết được bốn ngày để an ủi chị em Maria và cũng để chứng mình lời Người vừa nói là "Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống."

Như thế khóc thương người đã ly trần là điều tự nhiên, phù hợp với nhân tính, và văn hóa của mọi dân tộc, (người da đen và Mễ Tây Cơ còn khóc to hơn người Viêt mỗi khi có thân nhân chết). Và Giáo Hội cũng không dạy phải biến lễ tang thành đám cưới, để thân nhân đừng khóc thương và để tang ai nữa.

Ngược lại Giáo Hội chỉ qui định nghi thức tang lễ (Order of Christian Funerals (Ordo Exsequiarum) cử hành từ trong nhà quàn, đến nhà thờ và tiễn đưa ra ngoài nghĩa trang. Cũng như dạy phải cầu nguyện cho người đã ly trần bất kể người đó đã sống ra sao trước khi chết. Như vậy, mượn lời ngôn sứ I-saia nói về bữa tiệc cánh chung khi những người đã được cứu độ vào dự bàn tiệc Nước Trời, để biến lễ tang thành lễ cưới là điều sai lầm xét về cả hai mặt văn hóa và giáo lý của Giáo Hội.

Vẫn biết ai cũng có quyền hy vọng cho thân nhân mình được phần rỗi để vào dự bàn tiệc Nước Trời đã dọn sẵn, nhưng làm sao chúng ta biết ngay được chắc chắn ai đã được vào để mừng vui với họ và không cần cầu nguyện và khóc thương nữa ? Và khóc thương thì có sao đâu, vì niềm tin và Giáo Lý của Giáo Hội đâu có ngăn cấm việc này ?

Giáo Hội chỉ dạy các tin hữu tin có sự sống lại của những ai đã ly trần, và đây là niềm an ủi cho chúng ta mỗi khi phải tiễn biệt ai trong trần thế này qua cái chết.

Chính vì không biết được phần rỗi của ai, nên Giáo Hội chỉ dạy phải cầu xin cho người đã ly trần mà thôi. Cụ thể, khi nghe tin một hồng y hay giám mục nào chết, Đức Thánh Cha luôn gửi lời phân ưu chia buồn (condolences) tới thân nhân hay giáo phận của vị đã qua đời. Chưa hề có Giáo Hoàng nào đã gửi lời chúc mừng đến thân nhân của ai qua đời, vì cho rằng người quá cố đã vào "Bàn Tiệc Nước Trời" rồi nên phải mừng vui, thay vì khóc thương và để tang !

Như vậy, biến lễ tang thành đám cưới hay lễ phong thánh là sai hoàn toàn mục đích của việc cầu xin cho người đã chết như giáo lý và giáo luật của Giáo Hội qui định. (x. giáo luật số 1177, )

Tuy nhiên, trước cái chết của ai, Giáo lý Giáo Hội dạy rằng: "Trong sự chết, Thiên Chúa gọi con người đến với Ngài. Bởi vậy người Ki tô hữu có thể có một ước mơ như Thánh Phaolô đã nói : "… ước ao của tôi là ra đi để được ở vói Chúa Kitô, điều này tốt hơn bội phần" (Pl 1: 23). Và người Kitô hữu cũng có thể biến sự chết của mình thành một hành vi vâng phục với Chúa Cha, theo gương Chúa Kitô. (Lc 23: 46.)."(x SGLGHCG số 1011).

Nói rõ hơn, trước sự chết, thái độ và tâm tình thích hợp của người tín hữu là hy vọng hay trông cậy Chúa sẽ cho người thân mà mình đang khóc thương bây giờ, được sống lại để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc Thiên Đàng, như Chúa Kitô đã hứa cho những ai tin Người thì "dù đã chết cũng sẽ được sống lại."

Tóm lại, lễ cưới, lễ tang, lễ phong thánh đều có ý nghĩa và mục đích riêng khác nhau theo giáo lý và phụng vụ của Giáo Hội. nên không thể lẫn lộn làm theo ý riêng của mình được. Vả lại, làm như vậy là không am hiểu mục đích và ý nghĩa của phụng vụ thánh dành cho mỗi cử hành khác nhau.

Chúng ta đều được khuyến khích cậy trông và mong ước cho người thân đã ly trần của mình được vào hưởng Thánh Nhan Chúa. Và cầu nguyện cho họ chính là để nói lên ước muốn đó. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn không biết Chúa phán xét ra sao cho người thân của mình đã ly trần, nên chỉ biết trông cậy vào lòng khoan dung thương xót của Chúa mà thôi; chứ không nên đi quá giới hạn đó để tỏ ra vui mừng như thể đã thấy được người thân của mình đang dự "Bàn Tiệc Nước Trời" khiến không cần phải khóc thương hay để tang nữa.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
(http://danchuausa.net/song-dao/co-duoc-bien-le-tang-thanh-le-cuoi-hay-le-phong-thanh-khong/)

Saturday, March 22, 2014

THÁNH GIUSE THINH LẶNG

Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.

Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.

Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.

Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh.

Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv...

Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.

1. Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin.

Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Ðức Maria, đúng thực là "Ðấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1, 23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Ðấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Ðấng cứu thế.

Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài.

Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Ðức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục.

Bảo vệ Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin.

Tin Mừng là một mầu nhiệm "vốn được giữ kín từ ngàn xưa" (Rm 16, 25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16, 27).

Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín.

2. Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới.

Ðọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng.

  • Ông Môisen vào sa mạc Madian.
  • Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê.
  • Thánh Phaolô vào sa mạc Syria.
  • Thánh Benedictô lên núi Subiacô.
  • Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi.
  • Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày.

Ðối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Ðó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa.

Ðọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ.

Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1, 24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2, 14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2, 21).

Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn.

Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ.

3. Sau cùng, tôi thấy thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự hiện diện phong phú của Ngài giữa đời.

Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời. Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng. Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm. Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị.

Ðiều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm.

Riêng tôi, trong năm Mân Côi này, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta

  • biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa,
  • biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi,
  • biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ,
  • biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ,
  • biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn,
  • biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt.

Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.

GM J.B. Bùi Tuần

Saturday, March 8, 2014

Giáo Dục Con Cái Trong Gia Đình Tín Hữu

1.LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô dạy về việc giáo dục con cái như sau: "Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái phẫn nộ, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy" (Ep 6,4).

2.CÂU CHUYỆN: CHA BẮT CON TRAI 11 TUỔI ĂN PHÂN NGƯỜI

Trang mạng điện tử VnMedia đã ghi nhận câu chuyện một người cha giáo dục con cách độc ác như sau:

Mất mẹ khi mới 6 tuổi, Thuận bị bố bỏ rơi và được bà nội đón về chăm sóc. Bất ngờ, người bố lấy vợ ba rồi đòi quyền nuôi con. Sống cùng bố và dì ghẻ, bé trai 11 tuổi thường xuyên bị đánh bằng dây điện và bị bắt ăn… phân người. Tại nhà của bà Nguyễn Thị Dụn (61 tuổi, ở đội 2, thôn Minh Kha, xã Đồng Thái, An Dương, Hải Phòng), cháu Bùi Xuân Thuận (11 tuổi, hiện là học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Đồng Thái) cho biết, cháu thường xuyên bị cha đẻ là Bùi Xuân Phong (33 tuổi) đánh đập dã man nhiều lần.

Theo trình bày của bé Thuận, vào ngày 6/10, Thuận lấy điện thoại của người chú để chơi điện tử. Đang chơi thì bất ngờ Phong trở về. Bé Thuận sợ quá nên không dám để điện thoại vào chỗ cũ mà vứt ở ngoài hiên nhà. Một lát sau, người chú tìm điện thoại và hỏi Thuận xem có lấy không, bé Thuận nói dối là không lấy. Khi tìm được chiếc điện thoại ở ngoài hiên, biết là do bé Thuận để ở đó, Phong đã nổi trận lôi đình đánh con. Người bố tàn ác đã bắt bé Thuận cởi trần truồng rồi dùng dây điện có lõi bằng đồng, chập hai, chập ba làm hung khí thẳng tay quật vào người con. Khắp người cháu bé chi chit những vết bầm tím, sưng tấy. Đến thời điểm bé Thuận được công an xã và bà nội đưa đi khám tại Bệnh viện đa khoa huyện An Dương thì vết thương đã trải qua 5 ngày, nhưng mức độ nghiêm trọng vẫn hằn sâu trên da thịt đứa trẻ. Theo kết quả khám thương, bé Thuận bị nhiều vết bầm tím tại cánh tay, cẳng tay, lưng và hai mông. Cậu bé đau đớn kể: "Cháu thường bị bố đánh bằng dây điện, có lần bị đánh bằng cây que. Bố đánh vào người, vào đầu…". Lần khám thương này, Thuận mới chỉ được khám ngoài da, còn vùng đầu chưa được giám định. Bé Thuận kể lại rằng, có lần, khi Thuận đi chơi về thì bố và dì đang ngồi ăn cơm. Khi bố gọi vào ăn, Thuận trả lời đã ăn rồi thì bất ngờ Phong lại nổi cáu vì cho rằng Thuận nói dối. Lần đó, người bố mất nhân tính đã đánh đập Thuận rồi nhốt vào hố xí sau nhà. Chưa dừng lại ở đó, Phong còn sai đứa con thứ hai (em trai ruột của Thuận, 5 tuổi – PV) cầm bát sứ ăn cơm ra sau nhà xúc một bát phân người vào bắt Thuận ăn. Thấy Phong quá độc ác, một người hàng xóm đã ra sức can ngăn nên Phong đã thôi, không bắt bé Thuận ăn bát phân ấy. Khi công an xã hỏi về chi tiết này, Phong cho rằng y chỉ... dọa.

3.SUY NIỆM:

Chúng ta thường được giáo dục để trở nên những đứa con tốt trong gia đình, nhưng rất ít khi chúng ta được giáo dục để trở nên những cha mẹ tốt. Ở trường học, chúng ta học rất nhiều môn, nhưng không môn nào dạy ta nghệ thuật làm cha mẹ, nghệ thuật mà ta phải áp dụng suốt cả cuộc đời kể từ khi có con, đồng thời cũng là một nghệ thuật hết sức quan trọng cho hạnh phúc của ta cũng như cho tương lai của con cái. Vì thế, đa số nhân loại khi lên làm cha mẹ đã không biết phải đóng vai trò đó như thế nào cho đúng. Thường thì chỉ khi làm cha mẹ chúng ta mới bắt đầu học nghệ thuật ấy, học theo kiểu "nghề dạy nghề", tự mò mẫm học, phải tự suy nghĩ để tìm ra phương pháp. Cũng có những sách nói về nghệ thuật này, nhưng không nhiều.

1. Đừng quá kỳ vọng vào con cái:

Con người không ai hòan hảo: "Nhân vô thập tòan", nên cha mẹ đừng đòi con cái phải tốt lành hoàn hảo làm hài lòng ta hoàn toàn. Vì khi nghĩ lại chính chúng ta cũng thấy mình bất tòan và không làm cho cha mẹ ta hài lòng. Dù vậy ta cũng nên đòi hỏi con cái thế nào để chúng cố gắng hơn. Cần biết khen ngợi khi thấy con có sự tiến bộ.

2. Hãy chấp nhận giới hạn của chúng:

Do ai cũng có giới hạn, mà dù có cố gắng đến đâu cũng khó lòng vượt qua. Điều quan trọng là đặt ra mục tiêu phù hợp với khả năng của con cái để động viên chúng thực hiện. Thông thường, cha mẹ hay đòi hỏi con mình phải thế này thế kia… Nhưng trong nhiều trường hợp, những kỳ vọng đó lại vượt quá khả năng của chúng. Ta không nên lấy mình làm khuôn mẫu cho con cái. Điều đó có thể làm cho chúng mang mặc cảm tự ti và bị nhụt chí khi. Hãy chấp nhận mức độ cao nhất mà chúng có thể đạt được. Cần đặt mình vào hòan cảnh của con để đánh giá sự việc cách chính xác.

3. Hãy dành thì giờ đối thoại với con:

Nên bỏ ra mỗi ngày ít nhất 15-20 phút tiếp xúc trò chuyện với con để tìm hiểu chúng thường là trong các bữa ăn. Nên khuyến khích chúng nói ra những điều chúng nghĩ và lắng nghe. Phải phản ứng kịp thời qua sự tán thành hay khen ngợi những gì chúng nói… Phải tập nói chuyện với chúng như bạn bè, nhất là khi chúng được 10 tuổi trở lên. Đừng để chúng trở thành hư hỏng lúc nào mà ta không biết.

4. Hãy tạo mối quan hệ thân mật với con cái:

Con cái ta cần được cha mẹ yêu thương, khuyến khích và hỗ trợ để phát triển. Do đó, cha mẹ cần liệu sao để chúng cảm nhận được tình thương của mình. Cần biểu lộ tình cảm của ta ra bên ngoài, qua ánh mắt, qua những cử chỉ âu yếm, những lời nói ngọt ngào, những hy sinh cụ thể của ta. Càng nhỏ, chúng càng nhạy cảm với tình thương của cha mẹ. Chúng cần tình thương để lớn lên và phát triển giống như cần thức ăn nước uống. Đừng chỉ yêu thương con bằng khối óc dù rằng rất cần, mà còn phải yêu chúng bằng con tim nữa.

5. Cần tạo cho con cái tin tưởng vào cha mẹ:

Trẻ mong tìm được những bảo đảm yêu thương từ nơi cha mẹ, nên ta phải trở nên chỗ dựa vững chắc cho chúng về mọi mặt. Phải sống làm sao để chúng cảm thấy an tâm. Mọi lời ta nói phải đúng để chúng tin tưởng, mọi việc ta làm phải tốt để chúng noi theo. Phải làm sao để chúng tin vào tình yêu, sự thành thật, khả năng hy sinh và sự cao thượng của cha mẹ.

6. Hãy luôn đồng hành với con cái:

Tuy nhiên, ta không nên tự thần tượng hóa mình trước mặt con cái. Tới một lúc nào đó, ta phải cho chúng thấy rằng chính ta cũng là người bất toàn đang phải nỗ lực tiến tới hoàn thiện. Ta chỉ là người đi trước và có trách nhiệm dẫn dắt chúng trong những bước đầu đời của chúng, đưa chúng đi vào đời sống nhân bản, và sau này, chính ta cũng cần sẵn sàng nhận lại sự nâng đỡ của con cái. Cần phải khiêm tốn nhận những khuyết điểm của mình. Cha mẹ nên trở thành bạn đồng hành của con cái và sẵn sàng nhận sự góp ý xây dựng của chúng.

7. Cần tôn trọng phẩm giá của con cái:

Đừng cấm đoán con cái những gì vô hại chỉ vì không hợp với sở thích của mình. Nên tôn trọng giờ học, giờ ngủ và giờ chơi của con cái. Nếu cần sửa phạt thì thì nên sửa phạt đúng mức, hợp lý và tránh sự quá đáng như mắng con bằng những lời thậm tệ, xúc phạm tới phẩm giá hoặc làm tổn thương tự ái của chúng. Đừng bêu xấu con trước mặt trẻ khác. Nếu được cha mẹ tôn trọng thì con cái mới biết tự trọng và sẽ có sự tự tin hơn.

8. Hãy tập cho con "đứng trên chính đôi chân của mình":

Khi còn nhỏ, con cái lệ thuộc cha mẹ về mọi mặt. Lúc đó, ta phải bắt chúng vâng lời, làm theo ý ta để phát triển đúng hướng. Nhưng ta phải giáo dục thế nào để chúng từng bước trưởng thành, có khả năng tự do và tự lập về mọi mặt. Đừng bắt chúng phải lệ thuộc và phải luôn làm theo ý ta. Cần phải biến con cái thành những người bạn ngang hàng với mình, liệu sao cho chúng có đủ điều kiện phát triển và ngày một trưởng thành hơn.

9. Hãy từng bước trao trách nhiệm cho con cái:

Phải tập cho con cái tinh thần trách nhiệm ngay từ khi chúng còn nhỏ bằng cách trao cho chúng những việc làm giúp đỡ cha mẹ từ dễ đến khó trong gia đình. Phải tập cho con cái dần dần quán xuyến được mọi việc trong nhà. Và khi chúng được 20 - 25 tuổi, phải tập cho chúng làm những việc người lớn như: làm ăn, giao thiệp, điều hành công việc,… Cần tập cho chúng làm hầu hết những công việc của cha mẹ, thậm chí có thể thay thế cha mẹ khi cần. Nên sớm giao trọng trách cho con cái đang khi chúng ta còn đứng đàng sau để hướng dẫn trợ giúp. Đừng để tới lúc ta không còn làm được gì nữa mới trao trách nhiệm cho con thì đã muộn, chúng có thể mắc phải sai lầm mà ta đành chịu bất lực vì không thể giúp gì được cho chúng.

10. Về việc giáo dục đức tin cho con cái:
Các cha mẹ Công Giáo cần ý thức trách nhiệm truyền đạt đức tin cho con cái ngay từ khi chúng còn nhỏ. Như một người trồng cây cảnh, muốn có cây cảnh có giá trị nghệ thuật, mang hình hươu nai hay chim phượng đẹp mắt… Ngoài việc chọn giống cây thích hợp và áp dụng kỹ thuật tưới bón theo từng loại cây, còn phải quan tâm định hình cho cây ngay từ khi cây mới ra cành non. Tránh để khi cây đã phát triển mới uốn thì đã muộn. Cũng vậy, cha mẹ tín hữu phải giáo dục đưc tin cho con cái ngay từ trong trứng nước, như có người nói: "Phải giáo dục đứa con ngay từ trước khi nó sinh ra 20 năm", nghĩa là phải giáo dục chính cha mẹ của nó. Từ cái khuôn đạo đức của cha mẹ mà đứa con sẽ được định hình phù hợp với đức tin truyền thống gia đình. Giáo dục đức tin không chỉ dừng lại ở các việc đạo đức như đọc kinh lần hạt, lập bàn thờ, treo tranh ảnh đạo, dự lễ tại nhà thờ, theo học các lớp giáo lý theo lứa tuổi… mà còn phải dạy con học sống lời Chúa, tuân giữ đặc biệt giới răn yêu thương qua thái độ luôn nghĩ đến người khác, qua cách ứng xử tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đinh. Cha mẹ biết dùng lời Chúa mà dạy dỗ con, nêu gương cầu nguyện tự phát phù hợp với hoàn cảnh trong các giờ kinh tối gia đình hay vào các ngày giỗ tết trong năm…

Kết luận:
Thế hệ con cái chúng ta có đức tin, đức hạnh và tài năng hay không phần lớn tùy thuộc vào sự giáo dục nhận được từ cha mẹ ngay từ nhỏ. Vì thế, các bậc cha mẹ cần phải biết cách giáo dục con cái cách khôn ngoan, phù hợp với khoa tâm lý giáo dục. Đừng phó mặc nhiệm vụ quan trọng này cho may rủi. Cũng đừng làm cách tùy tiện được chăng hay chớ.

4. THẢO LUẬN:
1) Bạn có đồng ý với các lời khuyên về việc giáo dục con cái nêu trên hay không ? Tại sao ?
2) Theo bạn, điều nào trong 10 lời khuyên nói trên là quan trọng nhất : Tại sao ?
3) Đọc đoạn Tin Mừng đầu bài và dâng lời cầu nguyện cho mình chu toàn bổn phận làm cha mẹ đối với con cái.

5.LỜI NGUYỆN:

Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin cho các bậc cha mẹ chúng con biết noi gương Cha để yêu thương dạy dỗ con cái chúng con. Xin cho chúng con biết cách dạy dỗ con bằng tình yêu thương và bằng việc nêu gương sáng cho chúng. Xin cho chúng con biết xây dựng một thể chế gia đình nề nếp gia phong, trên thuận dưới hòa theo truyền thống đức tin Công Giáo, để gia đình chúng con trở nên thiên đàng ngay từ trần gian hôm nay và chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời cho các gia đình chưa nhận biết Chúa,- AMEN.

LM ĐAN VINH - HHTM

Sunday, March 2, 2014

Thời Tôn Thờ Con Bò Vàng

Alphonse Marie Trần Bình An
Chia sẻ Tin Mừng Chúa nhật 8 Thường niên, Năm A


Thời Tôn Thờ Con Bò Bàng


Sau khi động đất tại Nhật Bản hồi tháng 3, 2011 vừa qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.

Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.

Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết. Bỗng nhiên, anh hét lên sung sướng: "Một đứa bé! Có một đứa bé!".

Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình khi đội cứu hộ nhấc em lên.

Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con". Chiếc điện thoại di động đã được truyền từ tay người này sang tay người khác. Tất cả những ai đã đọc mẩu tin đều không ngăn nổi dòng nước mắt.

Tình mẫu tử một lần nữa lại sáng chói trên bầu trời ảm đạm thế thái nhân tình. Tình mẹ phản ảnh phần nào lòng thương yêu vô vàn của Thiên Chúa với con người, như tiên tri Isaia đã khéo ví von: "Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?  Cho dù nó có quên đi nữa thì Ta, Ta sẽ cũng chẳng quên ngươi bao giờ." (Is 49, 15)

Con bò vàng

Hầu hết các Cty, xí nghiệp và nhà người ngoài Kitô giáo, đều có bàn thờ Thần Tài, Ông Địa ở ngay phòng khách. Theo truyền thuyết, Thần Tài chính là Triệu Công Minh, người đời nhà Tần. Ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bệnh trừ tà. Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cúng cầu ông để được phát đạt may mắn.

Hiện tượng thờ bái vật không chỉ thờ Thần Tài, mà còn thờ tất cả những gì họ cho là có thể đem lại danh lợi, thỏa mãn thị hiếu, cũng như tham vọng. Đó chính là hình thái thờ con bò vàng trong Cựu Ước (Xh 32, 1-35)

Con bò vàng hôm nay có thể là tiền bạc, của cải, chức tước, bổng lộc, quyền hành, thế lực. Con bò vàng còn là những phương tiện vật chất, nhà cao cửa rộng, tiện nghi, nội thất sang trọng, áo quần diêm dúa thời trang, phương tiện nghe nhìn hiện đại, vật dụng cá nhân cao cấp, xe cộ xa hoa đắt tiền,… Dĩ nhiên, khi tôn thờ con bò vàng, người ta dứt khoát chối bỏ Thiên Chúa, hiện diện trong đời. Hoặc chỉ thờ lạy Chúa trên môi mép, còn lòng trí thì quy hướng, tôn sùng con bò vàng. "Dân này thờ kính ta bằng môi bằng miệng, nhưng tâm hồn chúng thì xa ta." (Mc 7, 6)

Tín thác

Khi hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, đặt hết vào Ngài lòng trông cậy, niềm hy vọng, mới có thể thoát khỏi ách nô lệ con bò vàng, thoát khỏi những đam mê vật chất, cám dỗ thực dụng, tham sân si u mê mù quáng. "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho." (Mt 6, 33)

Tìm kiếm Nước Thiên Chúa là đón nhận những điều mà thiên hạ vẫn cho là điên dại, dở hơi hay ngu đần, lo tránh xa tựa dịch bệnh, như tinh thần nghèo khó, chịu đau khổ, hiền lành, đói khát sự công chính, biết xót thương yêu người, tâm hồn trong sạch, hòa nhã, chịu bắt bớ vì sự công chính. Tất cả đã được gói ghém đầy đủ trong Bát Phúc, Hiến Chương Nước Trời.

Tìm đức công chính của Thiên Chúa là tuân theo, vâng phục Thánh Ý Chúa, trọn vẹn bổn phận, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Tu thân, tích đức cho cuộc đời sau viên mãn.

Tóm lại, "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ." (Mt 6, 24). Đức Giêsu không chấp nhận sự chọn lựa cố tình nhập nhằng giữa Thiên Chúa hằng hữu và thế gian phù phiếm hư ảo.  "Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta." (Kh 3, 16).

"Theo Thầy bấy lâu nay, con có thiếu gì không?"- "Thưa Thầy không." Con bỏ tất cả, nhưng theo Chúa Quan Phòng, con còn lo gì? (Đường Hy Vọng, số 70)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc bên Chúa. Nhưng chúng con còn nặng lòng với thế gian, còn nuối tiếc củ hành, củ tỏi như dân Do Thái xưa nuối tiếc kiếp nô lệ Ai Cập. Xin Chúa ban cho chúng con ơn sủng ăn năn, sám hối, cũng như sáng suốt và sức mạnh chiến thắng bản thân, thế gian và ma quỷ, để trở thành chiên ngoan của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết sống khiêm nhường, khó nghèo và trung thành vâng theo Thánh Ý Chúa trọn đời. Amen.

Alphonse Marie Trần Bình An