"The Church invites all her members to be loyally committed to building a just, supportive and fair society. Giáo Hội mời gọi mọi phần tử của mình dấn thân cách trung thành nhằm xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng." -Pope Benedict XVI's address to Vietnamese Bishops on their "Ad Limina"
Monday, August 24, 2009
Food that Lasts
Jesus said, "Do not work for food that spoils; instead work for food that lasts for eternal life." John 6:27
Poet R. L. Sharpe will never forget this boyhood episode. He and his father wemt to Trussell's blacksmith shop to get a rale amd a hoe repaired.
When Trussell refused to take anything, his father insisted. Trussell's said to my father, "Sid, can't you let a body do something now and then-- just to stretch his soul?"
Why should "a body do some-thing now and then--just to stretch his soul?" Why don't I stretch my soul more often?
Remember that what you possess in the world will be found at the day of your death to belong to another, but what you are will be yours forever. Henry van Dyke
Wednesday, August 19, 2009
Thư Chung của Đức Giám mục Giáo phận Vinh

Kính gửi : Quý cha, quý tu sỹ, chủng sinh và anh chị em giáo dân toàn giáo phận,
Thưa quý cha và anh chị em thân mến,
Sau 50 ngày xa giáo phận đi viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, triều yết Đức Thánh Cha, viếng thăm các Thánh Bộ, cám ơn các Hội, các ân nhân đã giúp đỡ giáo phận cũng như thăm hỏi con cái Vinh ở hải ngoại, tôi đã trở về giáo phận bình an.
Khi nâng lòng lên cảm tạ Chúa, tôi cũng xin cám ơn quý cha và anh chị em đã cầu nguyện cho tôi rất nhiều, nhờ đó tôi có thể chu toàn việc bổn phận của mình.
Vui mừng hơn nữa, khi trở về, tôi thấy quý cha cùng tất cả anh chị em hiệp thông với nhau cách sâu xa, nhất là từ khi vụ việc Tam Tòa xảy ra, mọi thành phần dân Chúa đã một lòng một ý xin Chúa ban cho giáo phận nói chung và Tam Tòa nói riêng mau vượt qua thử thách đau thương.
Dấu chỉ hiệp thông được thể hiện rõ nét nhất qua Thánh lễ mừng Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời - Quan thầy giáo phận. Quả thật, chưa bao giờ giáo phận có một thánh lễ đông đúc như vậy. Chúng tôi vô cùng cảm động được biết có nhiều anh chị em giáo dân, sau khi vượt hàng trăm kilômét, đã phải tham dự Thánh lễ Quan thầy cách xa bàn thờ cả cây số, vì hôm ấy quảng trường và các con đường dẫn vào trung tâm giáo phận chật kín người, không thể nào di chuyển được. Cảm động hơn khi thấy mọi người đã hiệp thông cao độ để chia sẻ những đau khổ của anh chị em giáo dân tại Tam Tòa.
Đáng mừng nữa là mặc dù có rất đông người và nhiều phương tiện giao thông quá tải so với quảng trường giáo phận và các con đường dẫn vào Tòa giám mục, nhưng không xảy ra một điều gì đáng tiếc.
Điều làm cho nhiều người phải thán phục hơn cả là anh chị em đã thể hiện vẻ đẹp của dân Chúa: một dân hiệp nhất, một dân yêu chuộng hoà bình, yêu chuộng công lý và sự thật.
Chúng tôi biết có nhiều người rất bức xúc khi thấy anh chị em của mình tại Tam Tòa đã bị đánh đập đau thương, bị bắt giam bất công, bị chiếm đoạt tài sản cách trái phép, và nhất là các linh mục bị đánh đập trọng thương. Tuy nhiên trong tinh thần của người Công giáo, anh chị em đã biết nén lòng chịu đựng với niềm tin tưởng lời cầu nguyện của mình sẽ được Chúa chấp nhận. Chính nhờ những hy sinh quý báu đó mà chúng ta hy vọng công lý mau được lập lại, hoà bình sớm được triển nở trên quê hương.
Kính thưa quý cha cùng tất cả anh chị em,
Giáo phận chúng ta đã trải qua 163 năm lịch sử với bao thăng trầm, gian truân, thử thách. Nhìn lại quãng thời gian đó, mỗi chúng ta phải dâng thêm lời cảm tạ tri ân Chúa và Mẹ Maria – Mẹ giáo phận Vinh, đã luôn giữ gìn con cái giữa sóng gió biển đời.
Trong tinh thần của Năm Linh Mục và hướng tới Năm Thánh 2010 của Giáo Hội tại Việt Nam, chúng ta cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều linh mục thánh thiện, nhiệt thành. Xin Chúa ban cho chúng ta luôn biết góp phần xây dựng thế giới, quê hương ngày một an bình thịnh vượng.
Sau hết trong cùng một Mẹ giáo phận, chúng ta hiệp thông, cầu nguyện, thể hiện tình liên đới nhiều hơn nữa, giúp anh chị em tại Tam Tòa được thật sự hưởng tự do tôn giáo và mau ổn định cuộc sống.
Thân mến,

Source: http://vietcatholic.net/News/Html/70322.htm
Wednesday, July 29, 2009
Half a million Vietnamese Catholics march through the streets against police violence
Peaceful marches in the provinces of Nghe An, Ha Tinh and Quang Binh. The demonstrators protest against arrests and police violence against Catholics last week, who were attacked by security forces at the ruins of Tam Toa church
Hanoi (AsiaNews) - Half a million Catholics in Vietnam took to the streets of their cities to protest against police violence and the attack on hundreds of faithful July 20, at the ruins of Tam Toa church (see AsiaNews 21/07 / 09 - beatings and arrests of priests and faithful in the historic church of Tam Toa).
The diocese of Vinh, 300 km south of Hanoi, and other neighbouring diocese organized 19 parades in as many deaneries, demanding the immediate release of the faithful, beaten and arrested by security forces at Tam Toa. About 170 priests and 420 religious led the peaceful protests that took place simultaneously in yesterday morning, at various locations in the provinces of Nghe An, Ha Tinh and Quang Binh.
Organizers report some clashes between police and groups of demonstrators, in areas of the country where police had ordered people not to take part in the procession. Despite these threats, the faithful marched on, creating an event that some people are calling the greatest to ever take place in the country for religious reasons. The Tam Toa episode and these Sunday parades have rekindled tensions between the government and the Vietnamese Christian community regarding the issue of Church property confiscated by Hanoi. Nhan Dan, the newspaper of the Communist Party, launched a slander campaign against Catholics after the events of Tam Toa accusing the faithful, who had erected a cross and an altar there, of "counter-revolutionary activities, disturbance of public order and violence against public officers in service". The bishop of the diocese of Vinh, where the ruins of the church at the centre of the debate are found, has begin a tug of war with local officials in Quang Binh, who have jurisdiction on the case, accusing them of hiding the truth and breaking the law .
In a letter sent to local government, the Diocese of Vinh calls for the release of Catholics arrested in Tam Toa, medical care for the wounded beaten by police and the return of the cross and liturgical furnishings brought by the faithful to the ruins of the church and confiscated by police after the clashes. The silent protest marches organized yesterday reiterated the demands of the diocese of Vinh to the authorities. And the community of Vietnamese Catholics around the world have expressed their support for the event by observing a minute silence during Sunday masses.
Source: http://www.asianews.it/index.php?l=en&art=15894
Thông Cáo số 3 của VP Thư ký Tòa Giám mục Giáo phận Vinh
TÒA GIÁM MỤC XÃ ĐOÀI
Nghi Diên - Nghi Lộc - Nghệ An
Đt. 0383 611 845; 0977006526
Email: tgmxadoai2004@yahoo.com
Ngày 27 tháng 7 năm 2009
THÔNG CÁO (SỐ 3)
V/v Tam Tòa tại Đồng Hới, Quảng Bình
1. Đây là bản thông cáo số 3, qua đây, Văn phòng thư ký có những thông tin và báo cáo chính thức từ Tòa Giám mục Xã Đoài, Giáo phận Vinh về vụ việc Tam Tòa và các vấn đề liên quan.
2. Tòa Giám mục cám ơn các bài viết dưới những hình thức khác nhau đã lên tiếng hiệp thông với Tam Tòa, cách riêng là những nạn nhân bị công an và nay quân vô lại đánh đập và bắt giữ.
3. Trên một số báo đài của Nhà nước và của tỉnh Quảng Bình có nói về việc đất đai và vụ việc Tam Tòa. Tòa Giám mục Xã Đoài, Giáo phận Vinh tuyên bố rằng sự thật không phải là như các báo đài ấy nói.
4. Theo dự định, 7 giờ sáng Chúa Nhật, ngày 26/7/2009 tại nhà thờ 18 sở hạt trên tổng số 19 giáo hạt trong Giáo phận Vinh, giáo dân các giáo xứ đã đổ về giáo hạt mình để thể hiện tình liên đới, hiệp thông cầu nguyện cho Tam Tòa. Theo số liệu báo cáo từ các giáo hạt, số giáo dân tham dự lễ sáng hôm 26/7 gần 250 ngàn người. Giáo dân các giáo xứ mang theo cờ vàng-trắng với biểu ngữ: "Cầu nguyện cho giáo dân Tam Tòa bị công an Quảng Bình đánh đập và bắt giữ". Biểu ngữ này đang được treo ở cổng Tòa Giám mục và trước tất cả các nhà thờ trong toàn Giáo phận Vinh. Theo thông tin từ các giáo hạt, thánh lễ này được cử hành rất trang nghiêm, sốt sắng. Tất cả nói lên sự hiệp thông liên đới của linh mục đoàn, tu sỹ nam nữ và gần 500 ngàn giáo dân Giáo phận Vinh, với những anh chị em mình đang bị bách hại. Và ai cũng cảm thấy đau nhói, khi biết Thánh Giá đã bị công an Quảng Bình xúc phạm và nay đang bị hạng vô lại chiếm giữ.
5. Riêng tại Tam Tòa, Đồng Hới, có 7 linh mục trong hạt Đồng Troóc và hơn 500 giáo dân về nền nhà thờ Tam Tòa để dâng lễ. Nhưng có một lực lượng khoảng trên 3000 người, trong đó gồm có công an, cảnh sát, dân quân và dân địa phương đã dùng vũ lực ngăn cản, đánh đập một số giáo dân không cho tới nền nhà thờ Tam Tòa. Có 3 người bị đánh, trong đó có mẹ con chị Yên là phó Ca đoàn giáo xứ Tam Tòa bị một nhóm thanh niên xông vào đánh, chị ấy ngồi xuống. Con chị chạy tới chữa và cũng bị đánh (con chị mới 8 tuổi).
6. Chiều 26/7/2009 công an Quảng Bình tiếp tục bắt 3 giáo dân, trong đó có Ông Lý - chủ tịch HĐMV giáo xứ Tam Tòa; chị Yên - phó trưởng Ca Đoàn giáo xứ; Anh Thống quê xứ Trang Nứa, Nghệ An. Thêm vào đó công an Quảng Bình còn dùng các hình thức khác để đe dọa, trấn áp giáo dân Tam Tòa.
7. Sáng 27/7/2009, 5 linh mục và Hội đồng mục vụ các giáo xứ trong giáo hạt Kỳ Anh, (giáo hạt sát Quảng Bình) vào thăm các nạn nhân. Theo các Cha kể lại, khi đoàn vừa bước xuống xe, gần nền nhà thờ Tam Tòa thì một nhóm ăn mặc thường phục, có ít tên giống côn đồ xông vào đánh ngay các linh mục và giáo dân cùng đi. Cũng theo các Cha kể lại, đàng xa có một số trong trang phục công an đứng nhìn. Khi lớp "côn đồ" đánh Cha Phaolô Nguyễn Đình Phú và 3 giáo dân bị trọng thương thì nhóm công an mới tiến lại mang loa bảo mọi người giải tán. Một nhóm giáo dân đưa Cha Phú và mấy người bị trọng thương vào một trạm xá gần đó. Thấy tình thế quá bất ổn, vì nhóm côn đồ tiếp tục nói những lời tục tĩu, đe dọa buộc các linh mục và giáo dân phải rời khỏi nơi đó, nên các cha lên xe trở về.
8. Nghe tin trên, Cha Phêrô Ngô Thế Bính - quản xứ Hà Lời tới để nắm bắt tình hình. Thấy cảnh tượng khủng khiếp, vì nhóm côn đồ bao vây trạm xá không cho ai vào, ngài đứng từ xa và điện thoại yêu cầu phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình tới để cha Bính có thể vào thăm Cha Phú. Phó chủ tịch UBND Quảng Bình tới và dẫn Cha Bính tới thăm Cha Phú. Phó chủ tịch bàn Cha Phú ra khỏi trạm xá và ông đi khỏi đó. Sau đó một lớp côn đồ đang vây quanh trạm xá xông vào đánh 2 giáo dân đang trực cha Phú và đánh Cha Bính. Tình thế hỗn loạn, Cha Bính thấy công an trong trang phục của mình đứng nhìn để nhóm côn đồ đánh đập tàn nhẫn, rồi để Cha Bính nằm bất tỉnh. Có một giáo dân đang làm ăn tại Đồng Hới đi qua thấy và biết đó là Cha Bính liền thuê xe đưa Cha Bính tới bệnh viện Việt Nam-Cuba tại Đồng Hới. Và sau đó công an thuê taxi đưa Cha Phú và 5 giáo dân bị đánh trọng thương tới bệnh viện Việt Nam - Cuba. Tại bệnh viện, 2 Cha và các giáo dân bị đánh trọng thương không được cứu chữa gì. Và bệnh viện đề nghị Cha Phú về bệnh viện Kỳ Anh. Rồi họ cho xe đưa Cha Phú và 5 giáo dân về Kỳ Anh. Cha Bính nằm dở sống dở chết không được chăm sóc, khi tỉnh lại, ngài được người giúp đưa ra khỏi bệnh viện và lên xe về Phòng khám Đa khoa Tòa Giám mục Xã Đoài.
9. Một lần nữa, những hành động man rợ mà các chứng nhân cho biết là có sự tiếp tay của công an Quảng Bình làm cho dư luận khắp nơi phẫn nộ, bất bình. Giáo dân Vinh đang chuẩn bị tinh thần cao nhất để đối phó với mưu chước quỷ ma.
10. Máu giáo dân Tam Tòa đã đổ xuống tại mảnh đất thánh thiêng của Cha Ông. Nay máu linh mục Vinh đã đổ xuống tại Tam Tòa. Người ta chắc chưa ai lường hết sự thể sẽ xảy ra thế nào, nếu chính quyền Quảng Bình vẫn tiếp tục dùng vũ lực trấn áp tôn giáo.
11. Hiện nay, các nạn nhân tại Tam Tòa bị tổn thương tâm lý rất nặng, nhất là các trẻ em cũng bị quân vô lại làm khổ. Đoàn chiên nhỏ tại Tam Tòa như đang phải sống giữa bầy lang sói đông gấp trăm lần. Họ đang hy sinh thay cho chúng ta, những người tin Chúa. Xin mọi người hiệp ý cầu nguyện. Xin những người thiện chí cùng lên tiếng bênh vực họ.
Văn phòng Thư ký Tòa Giám mục
Chánh Văn phòng
(Đã ký và đóng dấu)
Linh mục Antôn Phạm Đình Phùng
Tuesday, June 16, 2009
Le Hien Phu Noi Chuyen Xung Ho
Lễ Hiền Phụ Nói Chuyện Xưng Hô
§ Lm Ansgar Phạm Tĩnh
Hôm nay nhân dịp ngày lễ Hiền Phụ (Fathers'Day), tôi xin chia sẻ với bạn nội dung lá thư có liên quan đến chuyện xưng hô CHA-CON, mà tôi đã trả lời cho một độc giả nữ, tạm gọi là chị Tiến Lên, người đã nêu lên thắc mắc như thế này: "Thưa linh mục Phạm Tĩnh…Tiến Lên có thắc mắc này: 'Tiến Lên không muốn gọi ai ngoại trừ Thiên Chúa là CHA, và Tiến Lên cảm thấy bối rối khi gặp các linh mục vì không biết xưng hô như thế nào cho phải phép… Tiến Lên sợ xưng hô không đúng thì trở thành người vô lễ và bất kính vì thực ra trong lòng của Tiến Lên không phải vậy!"
Chị Tiến Lên thân mến,
Năm nay tôi đã 41 tuổi, nếu chị lớn hơn dù chỉ là 1 ngày thôi thì tôi cũng xin được gọi bằng chị. Còn nếu chị vẫn còn trẻ hơn cái tuổi 41 của tôi thì tôi cũng gọi chị bằng chị luôn. Chị biết tại sao vậy không? Là bởi vì văn hóa Việt Nam của mình khá rắc rối so với các nền văn hóa của người Tây và của người Tàu… lớn bé, già trẻ gì thì cũng YOU với I, NGỘ với NỊ rất đơn giản, không có nhiều danh xưng đi theo cặp, gắn theo đôi như tiếng Việt.
Những Cặp Từ Xưng Hô Thường Gặp Trong Đời Sống
Ở mỗi một miền (Bắc, Trung, Nam) đều có những lối xưng hô khác nhau, thế nhưng theo phong tục và cách hành xử của người bắc (hay ít là trong gia đình, họ hàng nhà họ Phạm của tôi) thì cách xưng hô phải có thứ tự và lớp lang như sau:
- Khi gọi một người (có vai vế lớn hơn hay lớn tuổi hơn mình) là ANH hay CHỊ thì phải xưng là EM.
- Khi gọi một người là ÔNG, BÀ, BÁC, CHÚ, CÔ, DÌ, THÍM, MỢ thì phải xưng là CON hay CHÁU
- Khi gọi một người là THẦY hay CÔ thì phải xưng là CON hay EM
- Khi gọi một tu sĩ là THẦY hay SƠ thì phải xưng là EM hay CON
- Khi gọi CHA hay ĐỨC CHA thì phải xưng là CON
Xưng hô trật một chút hay lệch lạc không đúng cặp, đúng đôi thì sẽ bị xem là người vô giáo dục và phiền toái vô cùng! Người ta sẽ đánh giá, phê phán và thậm chí còn tỏ thái độ khinh thường tôi và cả cha mẹ của tôi nữa nếu tôi không biết cách xưng hô cho đúng phép, đúng kiểu, đúng cách.
Tại Sao Người Việt Nam Cứ Hỏi Tuổi Tác Khi Gặp Nhau Lần Đầu?
Vì cái sự không đơn giản trong nền văn hóa của họ Mít nhà ta như vậy cho nên (không biết chị có để ý hay không?) cứ mỗi lần gặp nhau thì thiên hạ hay hỏi thăm nhau về tuổi tác, tên họ, chức nghiệp, địa vị, thân phận… của nhau lắm ! Không phải là dân Mít nhà mình tò mò, tọc mạch, hay thích xen vào đời tư của kẻ khác đâu! Nhưng là vì bà con nhà mình muốn xưng hô cho đúng cách, đúng kiểu và nhất là không muốn đối tượng mà mình đang nói chuyện hay người ở xung quanh đánh giá mình là một người vô lễ, thô lỗ và…thiếu văn hóa.
Cá nhân tôi, khi xưng hô với anh chị em giáo dân… tôi vẫn luôn ghi nhớ lời của thánh Phaolô dạy trong thư gửi cho ông Timothy khi khuyên nhủ, hãy coi các cụ như cha; hãy coi các thanh niên như anh em, các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em… (1Tm 5:1-2).
Đối với những người tôi không hề biết tuổi, không biết mặt mũi dài ngắn, tròn méo ra sao (anh chị em bà con giáo dân thuộc giáo xứ Internet như chị chẳng hạn) thì khi viết bài chia sẻ, tôi thường kêu BẠN và xưng TÔI. Còn trong những trường hợp biết tuổi tác, vai vế thì tôi sẽ tùy cơ ứng biến, sẽ xưng hô theo đúng danh phận và cấp bậc… ví dụ như:
- Hễ ai lớn tuổi hơn thân phụ mẫu của tôi thì tôi gọi là CỤ, ÔNG, BÀ, BÁC xưng CON, hay CHÁU.
- Nếu trẻ tuổi hơn ba mẹ của tôi thì tôi kêu CHÚ, CÔ, THÍM và xưng là CHÁU.
- Với những anh chị có tuổi đời hơn số 41 thì tôi gọi ANH CHỊ và xưng là EM.
- Còn với những người dưới hàng 41 thì tùy cơ ứng biến, hễ mặt nhìn giống như ông cụ thì kêu ANH CHỊ xưng TÔI, còn nếu nhìn còn trẻ thì CẬU, MÌNH, MI, TỚ…
- Đối với các linh mục cao niên thì tôi gọi CHA xưng CON. Nếu còn trẻ cùng lứa tuổi, dễ chịu, không khách sáo, quen thân một chút và trông có vẻ… chịu chơi thì gọi là ANH xưng EM, SƯ HUYNH xưng TIỂU ĐỆ.. Còn nếu vị linh mục trẻ hơn tôi mà thuộc loại cụ non thì tôi gọi CHA xưng CON để gọi là… vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi!
- Riêng với cái đám nhoi nhoi, choai choai thuộc phái yếu thì tôi gọi chúng nó là CHÚNG MÀY và xưng TAO ráo trọi.
Đừng vội đánh giá tôi là thô lỗ, bất lịch sự, thiếu văn hóa khi tôi gọi đám choai choai bằng MÀY TAO nhé! Sở dĩ tôi gọi chúng nó bằng những danh xưng hơi sống sượng và khó nghe như vậy để bản thân những người trẻ và nhất là những phóng viên của đài FM Con Vịt, hay là những ông, những bà quan tòa bất đắc dĩ khỏi có cơ hội kết án, đóng đinh và đem treo tôi lên thập giá: "Cha xưng tên với tao, chắc ổng có tình ý gì đây ... Bà biết không, chị có thể tin được không… cha gọi con Hợi bằng em và xưng anh với nó đấy ... Cha cụ gì mà nói chuyện với con gái ngọt như đường vậy?... "
Cách Xưng Hô Mang Tính Lịch Sự & Xã Giao
Trong trường hợp xã giao hay gặp gỡ những nhân vật có những tước vị (title) hay có những danh xưng ví dụ như là bác sĩ, luật sư, nha sĩ, dược sĩ, thị trưởng, giám đốc, hiệu trưởng, tổng thống, thủ tướng… thì theo sự thường, tôi sẽ dùng những tước vị hay những danh xưng đó để chào hỏi hay đàm luận, chuyện trò với họ trong office, nơi hội nghị hay trong những buổi họp, tiệc tùng ở nhà hàng... "Thưa bác sĩ Đông… Thưa luật sư Tây… Thưa nha sĩ Nam… Thưa ông (bà) thị trưởng Bắc… Thưa ông thị trưởng Tứ… Thưa bà giám đốc Phương…"
Khi nói chuyện với những người có tước vị (chức tước & vị vọng) như vậy, chị nghĩ là tôi có thể bỏ hết những danh xưng của họ, chỉ cần gọi cái tên cúng cơm của họ như ông Đông, bà Tây, anh Nam, chị Bắc, chú Tứ, cô Phương… được không? Dĩ nhiên là được nhưng tôi chỉ xưng hô như vậy trong những trường hợp sau đây:
- Thứ nhất: Khi chính họ lên tiếng yêu cầu: "Làm ơn đừng khách sáo như vậy, mình là ngưòi nhà (là bạn bè, là anh em…) cả mà!"
- Thứ nhì: Họ phải là bạn thân, rất thân của tôi hay của gia đình tôi
- Thứ ba: Cuộc đàm luận hay truyện trò có tính cách cá nhân, thân thiện ở tư gia hay trong phòng ăn của gia đình với những người thân trong gia đình.
Linh Mục Là Một Tước Vị Được Công Nhận Trong Xã Hội
Tôi vẫn thường gặp và giao tiếp với nhiều người chẳng phải là Công Giáo. Họ thường hỏi thăm và chào hỏi tôi: "Anh là linh mục Công Giáo hả? Are you a Catholic priest?… Thưa linh mục, tôi muốn ngài chứng nhận cho con tôi đang theo học ở trường Francis Xavier… Cậu là một linh mục của Giáo Hội Công Giáo, cậu nghĩ gì về những vụ tai tiếng mới xảy ra đây…"
Và cả những vị cao niên đang sống trong căn chung cư ở Vancouver này với tôi bằng tuổi và thậm chí còn lớn hơn tuổi thân phụ mẫu của tôi mà họ vẫn cứ gọi tôi bằng CHA và xưng CON tỉnh bơ. Khi các vị này gọi tôi là CHA và xưng là CON với tôi , chị có nghĩ là tâm tình của họ, hay lòng kính trọng của họ đối với tôi giống y như là đối với cha ruột của họ không? No way! Tôi không nghĩ như vậy! Họ xưng hô như vậy là bởi vì phép lịch sự, là vì khách sáo, là vì họ tôn trọng chức vị và thân phận của tôi là một kẻ tu hành, chỉ có vậy thôi!
Tương tự như thế! Khi tôi tiếp chuyện với một nhà tu hành thuộc các tôn giáo khác, ví dụ như một vị Hoà Thượng chẳng hạn, thì tôi sẽ không ngần ngại gọi vị ấy là THẦY hay SƯ PHỤ và xưng CON. Danh xưng THẦY hay SƯ PHỤ bao hàm ý nghĩa là thầy dạy, "nhất tự vi sư, bán tự vi sư" là vậy! Vị Hòa Thượng ấy đâu có dạy tôi ngày nào, chẳng hề cho tôi dù là nửa chữ… mà tại sao tôi lại gọi là THẦY, là SƯ PHỤ? Chẳng qua là vì tôi tôn trọng cái chức vị của vị Hòa Thượng ấy và tôn trọng những người Phật tử đứng xung quanh tôi.
Bạn nghĩ thử mà xem, những Phật tử (lớn tuổi hơn tôi…) kêu vị tu sĩ ấy là THẦY và xưng CON, còn tôi (trẻ hơn họ) mà lại kêu khác đi thì bạn thấy có lập dị, có kỳ cục không?! Tôi xưng hô lịch sự với vị Hòa Thượng như vậy có mất mát gì không? Thưa không! Trái lại tôi còn gây được tình cảm thân thiện với những người xung quanh nữa. "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau!" Là như vậy đấy!
Còn dưới con mắt đức tin của những người Công Giáo, như tôi đã chia sẻ trong bài "Những Sự Khác Biệt Giữa Linh Mục và Giáo Dân" thì anh chị em giáo dân tin rằng linh mục là người đại diện cho Thiên Chúa, là hình ảnh của Chúa Kitô, linh mục đóng một vai trò như là một người cha tinh thần của họ bởi vìtrong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, [và qua phép Rửa] chính [linh mục] đã sinh ra [họ] (1 Cor 4:15). Như thế khi anh chị em giáo dân mở miệng kêu một vị linh mục (mặt còn búng ra…café sữa… đá như tôi) là CHA thì tôi cam đoan với chị là cái ý nghĩa của từ CHA và những tâm tư tình cảm của bà con hoàn toàn khác khi họ xưng hô với người CHA đẻ ra họ và lẽ dĩ nhiên khác xa với cái từ CHA khi họ cầu nguyện với Chúa khi họ mở miệng đọc kinh LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI…
Tại sao linh mục lại được gọi là cha? Mời chị cùng với tôi xem qua một số đoạn trong thư của thánh Phaolô gửi cho ông Titus:
Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Đó là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ gì đừng có ai coi thường anh. (Ti 2:2-3,15).
Chị thấy lạ không? Titus là một người còn trẻ, nhưng lúc đó, ngài đã được giao phó cho trách nhiệm của một người cha đấy!
- … dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh…
- … khuyên các cụ ông… cụ bà…
- … phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền…
Nếu giáo dân thời bấy giờ không nhìn nhận rằng Titus là một vị đại diện cho Chúa Kitô, là người cha thiêng liêng, và là người nhận được quyền dạy dỗ từ Thiên Chúa…thì làm sao ông dám thi hành những công việc như răn dạy, khuyên bảo, sửa chữa…những người già và cả những người trẻ được?
Khi giáo dân của Titus gọi ngài là CHA thì chắc chắn trong tâm tư của họ không hề có ý nghĩ ông là THIÊN CHÚA CHA hay là ông thân sinh ra họ đâu! Thật đấy!
Khi gọi một người tu hành là CHA và xưng CON, người giáo dân tỏ ra sự kính trọng MÓN QUÀ của Thiên Chúa là chức LINH MỤC và cũng chứng tỏ rằng họ hiểu thấu lời của Chúa Giêsu: "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm" (Mt 23:2). Chức vụ của những người Pha-ri-sêu được coi trọng chứ không phải là con người và hành vi của họ. Chị đồng ý không?
Có thể chị đang thắc mắc là không biết khi tôi nghe người ta xưng hô cha con như vậy với tôi như vậy thì tôi có cảm giác như thế nào chứ gì? Thú thật với chị là chẳng dễ chịu chút nào cả! Nhất là khi gặp những cụ đáng tuổi ông bà nội, ông bà ngoại… của tôi kêu CHA và xưng CON với tôi! Thế nhưng thưa chị, làm sao tôi có thể thay đổi được truyền thống, niềm tin và sự kính trọng của người khác đối với thiên chức linh mục được? Dù muốn, dù không thì khi tôi cử hành bí tích Rửa Tội tôi đã đóng vai trò của một người cha để sinh ra và dưỡng nuôi những người con tinh thần ấy! "Linh Mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ Bí tích Rửa Tội và giáo huấn"(Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội # 28)
Như vậy, nếu chị không ngại dư luận, không sợ bị người khác phê bình hay chỉ trích thì khi xưng hô với những kẻ đi tu như tôi hay vị linh mục ở giáo xứ của chị… thì chị cứ tùy ý, muốn gọi, muốn xưng làm sao đó cho thoải mái và tiện lợi cho chị, miễn là trong lòng chị vẫn kính trọng cái CHỨC VỤ và ƠN GỌI của các linh mục là tốt rồi! Chứ nếu gọi CHA xưng CON nhưng trong lòng khinh thường hay cảm thấy khó chịu, ấm ức, gò bó, bực bội và không cảm thấy thoải mái chút nào cả thì có khác gì "miệng tụng nam mô mà lòng cả bồ dao găm" thật chẳng có ích gì cả mà còn thêm tội nữa.
Những danh xưng CHA, FATHER, MASTER, TEACHER… chỉ là vấn đề xã giao, lịch sự và lễ giáo mà thôi, chẳng ảnh hưởng gì đến hòa bình của thế giới cả. Tôi tin rằng khi chị xưng hô đúng kiểu đúng cách với những người có chức vị thì chỉ có lợi cho chị thôi chứ những vị ấy chẳng được lợi lộc gì cả, chị nghĩ thử xem có đúng không? Tôi nói thật đấy! Cho dù cho chị có kêu những kẻ tu hành là linh mục, hay là kêu tôi là cha, là father, là shẩn phu, hoặc An-cha, thằng Tĩnh, thằng Tư hay bất cứ danh xưng gì đi chăng nữa thì tôi cũng vẫn là tôi thôi, chẳng béo thêm và cũng chẳng gầy đi tí nào cả! Đó là quyền tự do của mỗi cá nhân, tùy vào lòng tin, nền văn hóa và suy nghĩ cũng như quan niệm riêng của mỗi người.
Chị có quyền và có thể gọi tất cả những người đi tu là LINH MỤC và xưng bằng tên của chị. Nhưng mà tôi nói thật với chị, không phải lúc nào chị cũng dễ dàng như vậy đâu! Ví dụ như khi chị được cử lên thay mặt công đoàn ngỏ lời cám ơn một vị linh mục giảng phòng chẳng hạn! Chị dám phát biểu như thế này không?
"Kính thưa linh mục, Tiến Lên xin thay mặt cho cộng đoàn cám ơn linh mục đã đến dâng thánh lễ cầu nguyện cho cộng đoàn của Tiến Lên, xin Chúa trả công bội hậu cho linh mục…"
Có thể chị dám lắm chứ! Nhưng tôi e rằng khi chị xưng hô như vậy với một linh mục cao niên đáng tuổi cha, chú hay bác của chị nơi nhà thờ thì những khẩu đại bác ở bên dưới nhất là những quả đạn cối của các bậc cao niên sẽ không nằm yên đâu! Những viên đạn đại bác sẽ nhắm vào chị và sẽ…pháo cho mà xem! Cầu chúc chị bình an, vui tươi và khoẻ mạnh trong tình yêu Thiên Chúa.
Lm Ansgar Phạm Tĩnh
Wednesday, June 3, 2009
Chia se Loi Chua trong Thanh Le An Tang cu Phero Nguyen Ba Can
Kính thưa quí vị quan khách, quí ông bà và anh chị em giáo hữu thân mến,
Trong bộ Kinh thánh của Giáo hội Công giáo có một cuốn sách với tựa đề là Sách Giảng Viên. Tác giả sách Giảng viên tóm lược tư tưởng chính yếu của ông trong câu 11 đoạn 3 như sau: Thiên chúa đã làm mọi sự hợp thời và đúng lúc. Thiên chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu biết hết ý nghĩa công trình của Thiên chúa thực hiện trong vũ trụ. Do đó khi suy nghĩ về cuộc sống và sự chết, tác giả Giảng viên nói rằng:
Ở dưới bầu trời nầy mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời của nó.
Một thời để chào đời. Một thời để lìa cõi thế.
Một thời để trồng cây. Một thời để nhổ cây.
Một thời để giết chết. Một thời để chữa lành.
Một thời để phá đổ. Một thời để xây dựng.
Một thời để khóc lóc. Một thời để vui cười.
Một thời để đánh mất. Một thời để tìm kiếm.
Một thời để giữ lại. Một thời để vất đi.
Một thời để làm thinh. Một thời để lên tiếng.
Kính thưa quí vị.
Thử nhìn lại đời mình, có lẽ không ai trong chúng ta thoát khỏi những điều tác giả sách Giảng viên vừa nói trên đây. Hôm nay chúng ta nhìn vào cuộc đời của Cụ Nguyễn bá Cẩn, một người bạn, một chiến hữu quốc gia, Chủ tịch Quốc hội, Hạ nghị viện, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, người tín hữu Công giáo:
Một thời để chào đời: Cụ Nguyễn bá Cẩn sinh ngày 9 tháng 9 năm 1930 tại tỉnh lỵ Cần thơ, thuộc đồng bằng sông Cửu long, trong một gia đình nông dân. Cậu bé Nguyễn bá Cẫn lớn lên nơi thôn quê ruộng đồng và từ đây bắt đầu 'Một thời để xây dựng': xây dựng cho bản thân; xây dựng cho gia đình; và xây dựng cho tổ quốc dân tộc.
Xây dựng bản thân: với đức tính kiên nhẫn, chí khí mạnh mẽ và trí khôn thông minh trời ban, chàng trai Nguyễn bá Cẩn đã thành đạt tốt đẹp trên con đường học vấn, tốt nghiệp các trường Sĩ Quan Trừ Bị, Trường Quốc Gia Hành Chánh. Kể từ đây ông Nguyễn bá Cẩn đã học hành trong nghề nghiệp và không ngừng xây dựng cho bản thân mình để thành nhân. Có thể nói triết lý nhân sinh của Ông dựa trên nguyên tắc phải thành nhân để thành công.
Xây dựng gia đình: Vào tháng 12 năm 1950, trước khi vào quân trường Thủ đức, chàng trai Nguyễn bá Cẩn xây dựng gia đình với cô Elizabeth Nguyễn thị Tu. Và Chúa thương cho ông bà có ba người con.
Xây dựng tổ quốc dân tộc: Có thể nói việc xây dựng tổ quốc dân tộc là lý tưởng cao đẹp mà Cụ Nguyễn bá Cẩn luôn ấp ủ và sống lý tưởng nầy cho đến giờ phút cuối cuộc đời của Cụ. Kể từ năm 1951, sau khi tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, Cụ Nguyễn bá Cẩn đã xây dựng tổ quốc qua việc phục vụ đất nước trong các chức vụ: Quận trưởng, Phó Tỉnh trưởng, Dân biểu Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Hạ viện, và sau cùng là Thủ tướng Chính phủ.
Thưa quí vị và anh chị em thân mến,
Lịch sử của mỗi người chúng ta ai cũng có những biến cố lớn nhỏ xảy ra trong đời mình, có những biến cố lớn mà chúng ta thường coi là những biến cố đổi đời. Lịch sử dân tộc Việt nam năm 1975 đưa đến cho nhiều người trong chúng ta đây một cuộc đổi đời, đổi lớn, đổi dữ dội, đổi khủng khiếp. Cũng như tất cả những người tỵ nạn từ năm 1975, Cụ Thủ tướng Nguyễn bá Cẩn phải qua một cuộc đổi đời không kém phần dữ dội. Cụ phải lập lại cuộc đời từ con số không. Nhìn thấy trước sự phát triển khoa học kỷ thuật của xã hội Hoa kỳ, Cụ theo học computer science programmer, và đã thành đạt trong việc học cũng như việc làm.
Ngoài những biến cố đổi đời trong cuộc sống vật chất, Cụ Nguyễn bá Cẩn còn có một biến cố đổi đời khác, mạnh mẽ hơn, sâu đậm hơn, đó là biến cố Cụ được ơn chữa lành đôi mắt qua sự bầu cử của Ðức Trinh Nữ Maria, nhân chuyến hành hương Ðức Mẹ Lộ đức ở Pháp. Và cũng từ đây hạt giống đức tin nẩy mầm trong Cụ. Ðầu năm 1996 Cụ Thủ tướng xin tôi giúp Cụ tìm hiểu giáo lý của Chúa. Suốt gần một năm, cứ mỗi ngày Thứ Bảy, Cụ lái xe lên nhà thờ của tôi ở Saratoga học giáo lý. Chúng tôi thỏa thuận với nhau mỗi lần học là 2 tiếng đồng hồ, nhưng có nhiều lần kéo dài hơn 3 tiếng, vì Cụ muốn tìm hiểu cặn kẽ về giáo lý và cuộc sống của người Kitô hữu, nhất là gương sống của các thánh trong giáo hội. Tôi cung cấp sách cho Cụ đọc, thế là cả trò lẫn thầy đào sâu nhiều vấn đề đạo cũng như đời. Cụ Nguyễn bá Cẩn có kiến thức rất rộng về chính trị, kinh tế, quân sự và xã hội. Ðiều quan trọng là Cụ dùng cái học của mình để phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc. Ðến cuối năm 1996, vào ngày 7 tháng 12 tôi cử hành Bí tích Thánh tẩy cho Cụ. Khi chọn thánh bổn mạng Cụ chọn Thánh Phêrô và nói: cha chọn Thánh Phaolô cho nên con phải chọn Thánh Phêrô, vì Phêrô và Phaolô thường đi đôi với nhau. Tôi nói: Cụ có tài lãnh đạo, Cụ điều khiển chính phủ, Cụ chọn Phêrô hợp lắm, mà Cụ biết không Phêrô là boss của Phaolô đó, như vậy là 'con hơn cha...'
Kính thưa quí vị,
Khi chọn bài đọc Phúc âm cho Thánh lễ An táng Cụ Thủ tướng Nguyễn bá Cẩn hôm nay, tôi đã trở lại môt trong những bài giáo lý tôi hướng dẫn Cụ đó là đoạn Phúc âm Thánh Matthêu về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu: Tám Mối Phúc Thật.
Chúa nói: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Ðất hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên chúa cho thỏa lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên chúa. Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao. Ở phần cắt nghĩa và thảo luận, tôi nói với Cụ: đây là bản hiến chương Nước Trời, sống đúng theo hiến chương nầy chúng ta được bảo đảm hạnh phúc Thiên đàng.
Hôm nay cùng với Cụ Bà Elizabeth và các con, chúng ta cám ơn Thượng đế, cám ơn Thiên chúa đã cho chúng ta một món quà quí giá một gương mẫu sống như lời Cụ tâm sự: "Tổng kết cuộc đời, tôi đã lãm việc gần 30 năm cho VNCH và 20 năm cho đại tư bản Hoa Kỳ. Suốt 50 năm không nghỉ ngơi! Tại vùng Vịnh của San Francisco này, mỗi ngày tôi phải lái xe trên 100 miles để đi làm... về nhà thì giặt giũ, phụ giúp việc nội trợ, vệ sinh... tôi làm mọi việc mà vẫn thấy yêu đời, yêu cuộc sống, bởi lương tâm tôi thanh thản vì đã phụng sự cho Tổ Quốc mà chưa hề làm gì tổn hại cho Tổ Quốc và đồng bào. Ðối với gia đình thì tôi vẫn luôn luôn là người chồng, người cha nhân ái và gương mẫu…"
Xin Chúa ban phần thưởng hạnh phúc Nước Trời cho Cụ. Tạm biệt Cụ.
Tuesday, May 19, 2009
Bước đi trong thần khí
Bài giảng của Đức cha Nguyễn văn Khảm ngày lễ phong chức giám mục cho Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản tại Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột ngày 12.5.2009
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố năm hồng ân của Chúa."
Chúa Giêsu đã dõng dạc đọc những lời này trong hội đường Nagiarét và sau đó, Người công bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,18-21).
Thế nhưng tôi tự hỏi, có thực sự là lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm? Có thực sự là mọi người mù được sáng mắt? Dĩ nhiên không thể phủ nhận rằng Chúa Giêsu đã chữa lành một vài người mù như Phúc Âm kể lại, nhưng chẳng nhẽ trên cả đất nước Israel lúc ấy, chỉ có vài người mù đó thôi sao? Còn cả trăm cả ngàn người mù khác nữa, liệu họ có được sáng mắt không? Mà nếu chưa được thì sao có thể gọi là ứng nghiệm?
Thế rồi, có thực sự là mọi kẻ giam cầm đều được tha và mọi kẻ bị áp bức đều được trả lại tự do? Ngay cả Gioan Tẩy giả, người thân của Chúa Giêsu, lúc ấy đang ngồi tù, cũng đã phải sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (Mt 11,2-3). Nghe trong câu hỏi có nỗi nghi ngờ, nghi ngờ vì đợi mãi vẫn không được tha, nghi ngờ vì chờ hoài vẫn không thấy tự do! Đã thế, liệu có thể nói là lời Kinh Thánh đã ứng nghiệm không?
Đi xa hơn nữa đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, khi chính Người bị bắt, bị giam cầm, bị áp bức… liệu chính Người có khả năng thoát khỏi xiềng xích ngục tù, khỏi bàn tay áp bức chăng? Các sách Tin Mừng kể lại rằng Chúa Giêsu đã bị đánh đập dã man, bị vác khổ giá và cuối cùng bị đóng đinh trên thập giá. Đến chính bản thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi ngục tù thì lấy đâu ra tự do để ban tặng cho các tù nhân? Đến chính Chúa Giêsu cũng bị áp bức thì lấy đâu ra sức mạnh để giải thoát những người bị áp bức?
Nêu lên những vấn nạn như thế không nhằm khước từ lời khẳng định của Chúa Giêsu, "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe", nhưng là để đọc lại những lời này trong một ánh sáng mới.
Mù loà không chỉ đơn thuần là khuyết tật thể lý nhưng có thể còn là khuyết tật tri thức, tâm lý và tâm linh. Có những khi ta nhìn một sự kiện, một biến cố mà không rõ ngọn nguồn sự việc vì thiếu hiểu biết, nghĩa là mù loà về mặt tri thức. Có những khi ta mở mắt thật to để nhìn mà vẫn không thấy được cái tốt của người khác chỉ vì ta cố chấp, đó là một thứ mù loà về tâm lý. Và nhiều khi ta nhìn rõ thế giới vật chất này nhưng lại không thấy mối tương quan giữa thế giới này và Đấng tạo dựng nên nó, tức là một thứ khuyết tật tâm linh, cho nên mới có lời cầu nguyện: "Xin mở cho con đôi mắt, để thấy tình yêu Chúa khắp nơi".
Cũng thế, có nhiều thứ ngục tù. Có những thứ ngục tù không giam hãm nổi tự do của con người, và ngược lại, có những thứ tự do biến con người thành tù nhân. Những nhà tù với hàng rào kẽm gai vây bọc chỉ có thể giam hãm thân xác con người chứ không thể giam hãm tự do hiểu như một giá trị tinh thần, không thể giam hãm suy tư và cảm xúc, tắt một lời, đời sống tinh thần của con người. Ngược lại, có những hành động được gọi là tự do nhưng thực ra chỉ là cái vỏ bên ngoài che đậy tình trạng nô lệ sâu xa bên trong, nô lệ những đam mê và ham muốn trần tục, nô lệ những tính toán quyền lực và phe nhóm…
Hiểu về sự mù loà và ngục tù như thế, mỗi người – kể cả giám mục và linh mục – bỗng khám phá ra mình cũng có những lúc sống trong tình trạng mù loà và mất tự do. Và cũng hiểu rõ hơn lời Kinh Thánh ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Kitô và chỉ có Chúa Kitô là ánh sáng để trong ánh sáng đó, ta có thể nhìn thấy chân tướng của sự vật và của đời người. Ánh sáng đó là ánh sáng chân lý và chỉ khi sống trong chân lý, ta mới có tự do đích thực. Kinh nghiệm lịch sử nói với ta rằng có những người bị giam giữ trong nhà tù với hàng rào kẽm gai vây bọc, và chỉ mong được tự do. Nhưng khi đã được tự do rồi thì chính họ lại dựng lên những nhà tù khác để giam giữ đồng loại của mình và để bảo vệ cái gọi là tự do của mình. Ấy là vì họ mới chỉ được giải thoát khỏi thứ nhà tù vật chất mà chưa được giải thoát khỏi ngục tù của những đam mê và ham muốn quyền lực, của hận thù và ích kỷ. Nelson Mandela đã hiểu ra được điều đó nên khi bước chân ra khỏi nhà tù đã giam giữ ông suốt 30 năm, ông tự nhủ: nếu tôi còn giữ lòng hận thù với những tên cai ngục, thì tôi vẫn còn bị giam giữ, chưa trở thành người tự do thực sự. Và chính điều đó khiến cho mọi người kính nể ông.
Chúa Kitô đến không phải để giải thoát con người khỏi những ngục tù bằng hàng rào kẽm gai nhưng giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ và tha hoá sâu xa nhất, và chúng ta cần đến ơn giải thoát đó. Chúng ta cần đến ơn giải thoát đó ngay giữa lòng một thế giới tưởng chừng rất đỗi tự do. Chúng ta cần đến ánh sáng đó ngay giữa một thời đại phát triển tri thức khoa học đến mức cao nhất. Và giám mục cũng như linh mục là những người được trao cho trách nhiệm loan báo ơn giải thoát đó, trách nhiệm tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, sứ mạng "loan báo Tin Mừng cho người nghèo, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị giam cầm được tha, trả tự do cho người bị áp bức".
Thế nhưng chính ở đây lại xuất hiện một nghịch lý: xét như là con người, bản thân giám mục và linh mục cũng có thể ở trong tình trạng mù loà và bị giam giữ trong những ngục thất vô hình. Vậy làm sao có thể làm cho người khác sáng mắt khi chính mình đang ở trong tình trạng mù loà? Làm sao loan báo tự do khi chính mình đang bị giam trong ngục thất? Henri Nowen đã có lý khi gọi các thừa tác viên trong Giáo Hội là wounded healer, nghĩa là những người có sứ mạng chữa lành cho người khác nhưng chính mình lại đang mang thương tích. Tuy nhiên, chính nghịch lý này thúc đẩy các giám mục và linh mục thi hành sứ vụ trong khiêm tốn và cậy trông vào quyền năng của Thánh Thần. Khiêm tốn vì nhận biết rằng tự thân mình không phải là ánh sáng và chân lý, nhưng chỉ đón nhận ánh sáng và chân lý từ một Đấng khác. Cậy trông vì xác tín rằng mình không thể chu toàn sứ vụ với sức riêng mình nhưng chỉ có thể chu toàn nhờ quyền năng của Thánh Thần. Chính vì thế, nghi thức chính yếu trong việc phong chức giám mục là việc đặt tay và lời nguyện phong chức. Đặt tay chính là cử chỉ nói lên việc thông ban Thánh Thần, cùng với lời cầu nguyện xin Chúa ban Thánh Thần thủ lãnh xuống trên vị tân giám mục.
Hơn ai hết, Đức Tân Giám mục xác tín điều đó, cho nên đã chọn khẩu hiệu cho đời giám mục của mình là "Bước đi trong Thần Khí" (Spiritu ambulate) (Galata 5,16), đồng thời ngài giải thích "bước theo Thần Khí" là "sống trong sự tự do mà Đức Kitô đem lại chứ không quá lệ thuộc vào cách suy nghĩ của người đời… là sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo quan điểm của xác thịt". Chỉ khi giám mục bước đi trong Thần Khí và hoạt động trong quyền năng của Thánh Thần thì ngài mới có thể chu toàn sứ vụ giám mục hết sức cao cả nhưng cũng rất nặng nề đã được trao phó.
Quyền năng của Thánh Thần chính là quyền năng của tình yêu, là sức mạnh thúc đẩy vị giám mục bước theo Chúa Giêsu Mục Tử, hiến thân trọn vẹn cho đoàn chiên đã được trao phó cho mình. Đây cũng là tâm tình của Đức Tân Giám mục. Nhớ lại khi vừa nghe tin Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản làm giám mục giáo phận Ban Mê Thuột, trang web của HĐGMVN đã lập tức phỏng vấn ngài, và khi được hỏi "Lời đầu tiên Đức Cha muốn gửi đến cộng đồng Dân Chúa Ban Mê Thuột là gì?", ngài đã trả lời, "Tôi muốn nói với cộng đồng Dân Chúa Ban Mê Thuột rằng tôi thuộc trọn về giáo phận và từ hôm nay, giáo phận Ban Mê Thuột, từng cộng đoàn, từng người Kitô hữu trong giáo phận là chính cuộc sống của tôi." "Kể từ hôm nay, tôi thuộc trọn về giáo phận." Nghe thật "mùi mẫn"! Cứ như là chú rể đang nói với cô dâu, "Kể từ nay, anh thuộc trọn về em"!
Mà đúng như thế, lát nữa đây, sau lời nguyện phong chức, vị chủ sự sẽ xỏ nhẫn vào tay của đức tân giám mục cùng với lời nhắn nhủ, "Hãy nhận chiếc nhẫn này như ấn tín đức tin… hãy gìn giữ hiền thê của Chúa là Hội Thánh được vẹn toàn." Nhẫn cưới đấy! Theo một nghĩa nào đó, lễ phong chức hôm nay chính là lễ cưới, cử hành cuộc hôn nhân thánh thiêng giữa Đức tân giám mục Vinh sơn Nguyễn Văn Bản và Giáo Hội tại Ban Mê Thuột. Thế thì theo truyền thống văn hoá Việt Nam, xin cầu chúc cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc.
+ Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm