Sunday, November 29, 2009

Message For Jubilee Year in Vietnam

VATICAN CITY, 26 NOV 2009 (VIS) - Vietnam is celebrating a Jubilee Year to commemorate 350 years since the foundation of the apostolic vicariates of Tonkin and Cochinchina, and fifty years since the creation of the Catholic hierarchy in the country. The Holy Father has joined the commemoration, sending a Message to Bishop Pierre Nguyen Van Nhon of Dalat, president of the Episcopal Conference of Vietnam.

In the text, dated 17 November, Benedict XVI notes how the opening of the Jubilee coincided with the feast of the 117 Vietnamese martyrs and expresses the hope that "the recollection of their noble witness may help the People of God in Vietnam to intensify their charity, increase their hope and consolidate their faith, which daily life sometimes tests very harshly".

The Pope likewise recalls how the opening celebrations took place at So-Kien in the archdiocese of Hanoi, location of the first apostolic vicariate in Vietnam, and expresses the hope that this site may become "the centre for a profound evangelisation which brings Vietnamese society the Gospel values of charity, truth, justice and rectitude. Such values, if lived following Christ, take on a new dimension which surpasses their traditional moral sense, because they are anchored in God Who desires the good and happiness of all creatures".

"The Jubilee Year", he writes, "is a time of grace in which to reconcile ourselves with God and our fellow man. To this end, we should recognise past and present errors committed against brothers in the faith and against fellow countrymen, and ask for forgiveness. At the same time, it would be appropriate to commit to increasing and enriching ecclesial communion, and to building a more just, united, equal society through authentic dialogue, mutual respect and healthy collaboration. The Jubilee is also a special time given to us to renew the announcement of the Gospel to everyone, and to become, to an ever greater degree, a Church of communion and mission".

Benedict XVI concludes his Message by greeting religious and laity in Vietnam who, he writes, "are ever present in my thoughts and daily prayers", and by encouraging bishops "to bear witness with courage and perseverance to the greatness of God and the beauty of life in Christ".

Source: Vatican Information Service VIS 091126 (380)

Sunday, November 8, 2009

Tổng giáo phận Toronto ( Canada) có Tân Giám mục phụ tá người Việt

TGP TORONTO – Ngày 6-11-2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm thêm hai giám mục phụ tá cho Tổng giáo phận Toronto, Canada. Một trong hai vị tân giám mục là Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu, Chưởng ấn kiêm Trưởng ban Điều hành Văn phòng Tổng giám mục Toronto. Tân giám mục Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu sẽ nhận hiệu toà Ammaedara.

Đức Tân Giám mục Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu sinh ngày 8-5-1966 tại Saigon. Ngài là người con thứ sáu trong gia đình 9 người con, 7 trai 2 gái. Thân sinh là ông bà cố Vincent Nguyễn Thế Tấn và Maria Đặng Thị Phượng, nguyên quán giáo xứ Giáp Nam giáo phận Bùi Chu.

Cha Hiếu rời Việt Nam năm 1983. Năm 1984 đặt chân tới Toronto, Canada và tiếp tục chương trình trung học. Năm 1987 theo học trường Đại Học Toronto tốt nghiệp kỹ sư điện.

Năm 1992 dưới sự hướng dẫn của cha cố Phêrô Maria Phạm Hoàng Bá, ngài vào Đại Chủng viện thánh Augustine Toronto.

Ngày 9-5-1998 ngài được thụ phong linh mục do Đức Hồng y Ambrozic, Tổng giám mục Toronto chủ phong.

Sau khi chịu chức linh mục, ngài được chỉ định làm cha phó giáo xứ Thánh Patrick Missisauga 3 năm và sau đó được bổ nhiệm làm quản xứ Thánh Monica Toronto.  Năm 2004 ngài được bổ nhiệm chánh xứ giáo xứ Thánh Ceclia, kiêm quản xứ giáo xứ Các Thánh Tử đạo Việt Nam tại Toronto. Trong thời gian này ngài là thành viên Hội đồng Linh mục, thành viên Hội đồng Quỹ truyền giáo và Hội đồng tư vấn của Tổng Giáo phận.

Năm 2005 được cử đi học tại Đại học giáo hoàng thánh Tôma Aquino, Roma và tốt nghiệp cử nhân Giáo luật. Năm 2008 sau khi du học trở về ngài giữ chức Phó chưởng ấn Tòa giám mục Toronto. Tháng 9, 2009 vừa qua Ngài được Đức TGM Toronto bổ nhiệm làm Chưởng ấn kiêm Giám đốc Giáo phủ Tổng giáo phận Toronto.

TGP Toronto là giáo phận lớn nhất Canada, gồm 225 giáo xứ, hơn 800 linh mục triều và dòng, với gần 2 triệu người công giáo dưới sự cai quản của Đức Tổng giám mục Thomas Collins và 4 giám mục phụ tá, kể cả 2 giám mục vừa được bổ nhiệm. Trong TGP Toronto thánh lễ tiếng Việt được cử hành hằng tuần tại 3 thánh đường và có 6 linh mục triều gốc Việt trong TGP.

Lm. Giuse Phạm Hồng Chương, Toronto, Canada

POPE BENEDICT XVI APPOINTS TWO AUXILIARY BISHOPS FOR THE ARCHDIOCESE OF TORONTO

TORONTO (6 November 2009) - The Holy Father, Pope Benedict XVI, has appointed Father Vincent Nguyen of the Archdiocese of Toronto and Father William McGrattan of the Diocese of London as Auxiliary Bishops for the Archdiocese of Toronto.

His Grace, Thomas Collins, Archbishop of Toronto, responded to the news with the following statement:

"We thank the Holy Father for blessing us with two new shepherds to assist the people of the Archdiocese of Toronto as we grow together in faith. I have worked closely with both Father Nguyen and Father McGrattan; as bishops, they will bring a love of the church and an abundance of gifts to their new roles. I look forward to collaborating extensively with them in the days ahead."

Bishop-elect Nguyen spoke of the announcement: "I am humbled to have been asked by the Holy Father to serve the people of the Archdiocese of Toronto as Auxiliary Bishop. To the faithful of the Archdiocese, please pray for me as I embark upon this new ministry as I will pray
for you. I will do all I can to assist Archbishop Collins as we strive to strengthen and nurture the diverse faith community of the Archdiocese."

Bishop-elect McGrattan commented on the Holy Father's appointment: "I am blessed to have served the people of the Diocese of London for the last 22 years. While it will be most difficult to leave the wonderful family I have come to know so well, I eagerly await the opportunity to
meet the faithful of the Archdiocese of Toronto. Please pray that I will be faithful in this challenging ministry. I hope that as I come to know the priests, deacons and lay leaders, we will be able to share the blessings of pastoral ministry which I experienced in London."

Father Vincent Nguyen was born in Viet Nam in 1966, the sixth in a family of seven boys and two girls. He came to Canada in 1984, entering St. Augustine's Seminary in 1993. Ordained a priest in 1998, he has served in parish ministry in Mississauga and Toronto while also providing pastoral leadership for Vietnamese Catholics in the Archdiocese of Toronto. Father Nguyen traveled to Rome for studies in 2005 and was awarded a Licentiate in Canon Law from the Pontifical University of St. Thomas Aquinas (Angelicum), Rome in 2008. He returned to Toronto and was appointed as Vice-Chancellor of Spiritual Affairs in August 2008. In September 2009, he was appointed as Chancellor of Spiritual Affairs and Moderator of the Curia.

Father William McGrattan was born in London, Ontario in 1956, the oldest of two children. He entered St. Peter's Seminary in 1982 and was ordained to the priesthood in 1987, serving in parish ministry in Chatham, Ontario. Father McGrattan studied in Rome and earned his
Licentiate in Fundamental Moral Theology from the Pontificio Universita Gregoriana, Rome in 1992. He returned to London, joining the faculty of St. Peter's Seminary, teaching theology courses and eventually serving as Vice Rector and Dean of Theology. Since 1997, he has served as Rector of St. Peter's Seminary in addition to serving on numerous boards and committees.

As one of the most diverse dioceses in the world, the Archdiocese of Toronto is home to 1.9 million Catholics who celebrate Mass each week in over 30 different languages. More than 800 diocesan and religious priests serve the Catholic community in 225 parishes across the
Archdiocese.

Photos and biographical information regarding the Archdiocese of Toronto's newest bishops can be found online: www.archtoronto.org

Source: http://www.archtoronto.org/events_news/auxiliary_appointed_nov09.html

Sunday, October 11, 2009

Thư Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa công bố Năm Thánh 2010



Từ Điển Thuật Ngữ Báo Chí Công Giáo: Oil Of Catechumens - Orders, Anglican


Oil Of Catechumens
Dầu dự tòng. Là một trong ba loại dầu thánh để cử hành các bí tích. Dầu này được dùng trong nghi thức Rửa tội, do đó nó mang tên này, dự tòng là người sắp lãnh nhận bí tích Rửa tội. dầu cũng dùng trong việc cung hiến thánh đường, cung hiến bàn thờ, truyền chức linh mục, và đã được dùng trong các lễ đăng quang của các vua Công giáo.

Oil Of Saints
Dầu các thánh. Là chất dầu được tin là chảy ra từ thánh tích hoặc nơi an táng một số vị thánh; cũng là dầu được thắp trong các đèn ở đền thánh các vị, và nước có thể được lấy từ giếng gần mộ các vị. Các dầu này, được tín hữu sử dụng, được cho là có thể chữa lành bệnh tật. Trong số các dầu nổi tiếng có dầu của: 1. Thánh Walburga, nữ đan viện trưởng ở Heidenheim, Bavaria, qua đời năm 780. Thi hài của ngài được đưa về Eichstadt, Bavaria, ngày 1-5-870. Năm 893, dầu được phát hiện chảy ra đều dặn từ thánh tích ngài, nay được đặt ở Eichstadt; 2. thánh Menas, dầu đến từ một giếng thánh tại Mareotis, trong sa mạc Libya, gần đền thánh quốc gia dâng kính Ngài; 3. đền thánh dâng kính thánh Nicholas thành Myra, và dầu chảy ra từ thánh tích của Ngài ở Bari, Ý.

Oil Of The Sick
Dầu bệnh nhân. Là dầu ôliu được giám mục một giáo phận làm phép để dùng cho bí tích xức dầu bệnh nhân. Thường được viết tắt là O.I. (oleum infirmorum, dầu bệnh nhân) trên vỏ lọ chứa dầu mà linh mục sử dụng. Cho đến năm 1874, khi Đức Giáo hòang Phaolô VI công bố Nghi thức Xức dầu mới, dầu ôliu được qui định là dùng cho việc cử hành bí tích Xức dầu thành sự. Điều này không còn cần thiết nữa. Bất kỳ dầu từ cây thực vật nào cũng được phép sử dụng trong khi cấp bách, và việc làm phép dầu do Giám mục, theo yêu cầu bình thường, có thể được trao cho một linh mục có thẩm quyền, và khi cấp bách, cho bất cứ linh mục nào.

Oil Stock
Bình dầu thánh. Là hộp kim loại dài có ba ngăn, mỗi ngăn ghi tên loại dầu để vào đó.

Old Age
Tuổi già, cao niên. Là tuổi mà một người được hưởng một số đặc quyền trong luật Giáo hội và hoặc trở thành chủ thể của một số hạn chế theo luật. Đây là một sự phát triển tương đối mới trong Giáo hội Công giáo như là kết quả của tuổi thọ gia tăng trên khắp thế giới. Hiện giờ tuổi tác ảnh hưởng đến nhiệm kỳ làm việc của các Giám mục, Hồng y và mục tử. Hiện nay bí tích xức dầu bệnh nhân cũng có thể ban cho "các người cao niên yếu về sức khỏe, mặc dầu họ không có triệu chứng bệnh nguy hiểm."

Old Law
Luật cũ. Thường được biết đến bằng nhiều cách gọi, chẳng hạn các sách Cựu Ước, Giao ước Cũ, hoặc hệ thống luật Moses (Mô-sê). Là các nghi thức tôn giáo, định chế, luật lệ và phong tục truyền thống của người Do thái trước khi Chúa Giêsu Kitô giáng sinh.

Old Testament
Cựu Ước. Là từ ngữ mô tả thời kỳ từ nguồn gốc loài người cho đến Chúa Kitô; cũng là mặc khải nguyên sơ, tổ phụ và ngôn sứ; và là Giao Ước cũ của Đức Chúa với người dân Do Thái. Nhưng nói chung Cựu Ước có nghĩa là bộ sách mà Giáo hội Công giáo tin là được Chúa linh hứng cho viết ra, và không phải là các sách Tân Ước. Theo thứ tự, các sách của Cựu Ước là: sách Sáng thế (St), Xuất hành (Xh), Lêvi (Lv), Dân số (Ds), Đệ Nhị luật (Đnl), Gio-duê (Gd), Thủ lãnh (Tl, Thẩm phán), Rút (R), I và II Sa-mu-en (Sm), I và II Các Vua (V), I và II Sử Biên Niên (Sb), Ét-ra (Er), Nơ-khe-mi-a (Nkm), Tô-bi-a (Tb), Giu-đi-tha (Gđt), Ét-te (Et), I và II Ma-ca-bê (Mcb), Gióp (G), Thánh vịnh (Tv), Châm ngôn (Cn), Giảng viên (Gv, Ecclesiastes), I-sai-a (Is), Giê-rê-mi-a (Gr), Ai ca (Ac), Ba-rúc (Br), Ê-dê-ki-en (Ed), Đa-ni-en (Đn), Hô-sê (Hs), Giô-en (Ge), A-mốt (Am), Ô-va-di-a (Ôv), Giô-na (Gn), Mi-kha (Mk), Na-khum (Nk), Kha-ba-cúc (Kb), Xô-phô-ni-a (Xp), Khác-gai (Kg), Da-ca-ri-a (Dcr), và Ma-la-khi (Ml).

Oleum Catechumenorum
Oleum catechumenorum (O.C.), Dầu dự tòng.

Oleum Infirmorum
Oleum Infirmorum (O.I.), Dầu bệnh nhân.

Olive Branch
Nhánh ôliu. Là biểu tượng phổ quát của hòa bình. Đây là một dấu hiệu hòa giải giữa Chúa và con người, với hình vẽ nhánh ôliu được chim câu mang về con tàu ông Noah (Nô-ê) sau trận Hồng thủy.

Olivetans
Dòng Oliver. Là Dòng Đức Bà Núi Oliver, một nhánh của Dòng Biển Đức do thánh Bernard Tolomei thành lập năm 1313 ở Núi Oliveto gần Siena, Ý. Tu sĩ Dòng tuân giữ luật thánh Biển Đức một cách nghiêm nhặt, trong trong một thời gian dài họ kiêng rượu nho hoàn toàn. Cũng có Dòng nữ tu Olivetan, có trụ sở ở Thụy Sĩ.

Omega
Chữ Omega. Là mẫu tự thứ 24 và là mẫu tự cuối cùng trong bảng chữ cái Hi Lạp. Chữ được dùng trong kinh thánh là Alpha và Omega (Kh 21:6), trong đó Chúa Kitô tự xem mình như là Khởi nguyên và Tận cùng. Chúa là Omega (Tận cùng) của vũ trụ như là số mệnh của loài người, và là sự hoàn thành sau cùng của mọi thụ tạo. (Từ nguyên Hi Lạp omega, chữ O lớn (dài), chữ cuối cùng của bảng chữ cái.)

Omen
Điềm báo, triệu chứng. Là cơ may nào xảy ra hoặc một sự việc được xem như một dấu hiệu báo trước. Nếu dấu hiệu được báo trong giấc mơ, nó được gọi là báo mộng. Thật là sai về luân lý khi xem trọng điềm báo và hướng cuộc đời mình theo các điềm báo, trừ ra trong các trường hợp đặc biệt khi có bằng chứng rõ ràng là có sự can thiệp của Chúa. (Từ nguyên Latinh omen, điềm báo.)

Omission
Bỏ quên, bỏ sót, thiếu sót. Là sự bỏ quên cố ý hoặc sự từ chối tích cực để làm một việc lành mà lương tâm thúc giục phải làm. Sự bỏ quên như thế là có tội về luân lý, và mục độ nặng nhẹ tùy thuộc vào tầm quan trọng của việc cần phải làm, vào ý muốn của người ấy, và vào các hoàn cảnh của sự việc.

Omn
Omn, Omnes, omnibus--tất cả, cho tất cả, bởi tất cả.

Omnipotence
Toàn năng. Là quyền năng tối cao của Chúa. Chúa có thể làm bất cứ sự gì không phủ nhận bản tính của Chúa, hoặc sự gì là không mâu thuẫn với Chúa. Bởi vì Chúa là Đấng hiện hữu vô cùng, Chúa cũng là vô biên trong quyền năng của Chúa. (Từ nguyên Latinh omnis, tất cả + potentia, sức mạnh: omnipotens, toàn năng.)

Omophorion
Dây pallium của nghi lễ Hi Lạp. Là một lễ phục của nghi lễ Hi Lạp, tương đương với dây pallium trong Giáo hội Roma. Là một dây rộng thường làm bằng tơ lụa hoặc nhung, được trang trí bằng nhiều hình thánh giá, khoác chung quanh cổ, lên vai và ngực. Dây được mang bởi các giám mục và tổng giám mục Byzantine, Armenian, và Coptic. Nguyên thủy dây này được làm bằng len, tượng trưng cho bổn phận của giám mục là người chăn đòan chiên tín hữu của mình.

Omri
Omri, vua Om-ri. Là Vua Israel từ năm 885 đến năm 874 trước Công nguyên. Ông là tổng chỉ huy quân độ, lên ngôi vua khi phế truất cách nhanh chóng Vua Zimri (Dim-ri, làm Vua chỉ bảy ngày). Có lẽ sự nghiệp đáng chú ý nhất của vua Omri là dời kinh đô từ Tirzah (Tia-xa) về một ngọn đồi tên là Samaria (Sa-ma-ri, I V 16:16). Các công trình phòng thủ đáng sợ do ông lập ra thật là vững vàng trong nhiều năm sau đó. Qua việc khôn ngoan cho thái tử Ahab (A-kháp) kết hôn với Jezebel (I-de-ven), và cho công chúa Athaliah cưới vua Jehoram (Gia-róp-am), ông củng cố liên minh có lợi với Tyre (Tia) và Judah (Giu-đa). Trong sách I Vua (V), ông bị thậm tệ nêu ra như là người "làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA và còn ăn ở tệ hơn tất cả các tiên đế" (I V 16:25). Ngôn sứ Micah (Mi-kha, Mk) chứng minh điều này: "Người ta theo các thói tục của Om-ri. . . các ngươi sẽ phải chuốc lấy nỗi nhục của dân Ta" (Mk 6:16).

Onan
Onan, ông Ô-nan. Là con trai của ông Judah (Giu-đa) và bà Shua (Su-a). Khi anh của Onan là Er (E) qua đời, ông Judah ra lệnh cho Onan cưới chị dâu là Tamar (Ta-ma), là sinh con để nối dõi cho anh mình, theo luật về anh em chồng (Đnl 25:5-6). Onan cưới chị dâu nhưng khi ăn ở với chị dâu thì cho tinh rơi xuống đất. Để trừng phạt Onan, Đức Chúa khiến Onan chết (St 38:8-10). Trong cách dùng từ ngữ hiện nay, hư dâm (onanism) được hiểu là ngừa thai hoặc thủ dâm. (Từ nguyên Do thái cổ Onan.)

Onanism
Hư dâm, giao hợp nửa chừng. Là từ ngữ thần học, hiểu là sự ngừa thai. Từ ngữ này phát sinh từ tên của ông Onan (Ô-nan), con trai của tổ phụ Judah (Giu-đa). Khi ông Judah yêu cầu Onan cưới vợ góa của anh trai, để duy trì dòng dõi của anh, Onan cưới chị dâu, nhưng khi giao hợp, Onan cho xuất tinh ra ngoài để chị không thụ thai. "Hành động của Onan không đẹp lòng ĐỨC CHÚA, nên Người cũng khiến cậu chết" (St 38:8-10). Các từ ngữ phổ thông đồng nghĩa với hư dâm là: kiểm soát sinh sản, ngừa thai, sinh đẻ có kế hoạch, và thuyết Malthus Mới.

One
Một, duy nhất. Là toàn thể và không thể phân chia tự bản tính, và khác với hữu thể khác hay phân biệt với hữu thể khác. Chỉ có Chúa là tuyệt đối duy nhất, bởi vì Chúa không có các thành phần hoặc phần cấu tạo, và vì là Đấng Tạo thành vũ trụ, Chúa hoàn toàn không giống với thế giới mà Ngài đã tạo ra. (Từ nguyên Latinh unus, một.)

Onesimus
Onesimus, ông Ô-nê-xi-mô. Là một nô lệ chạy trốn khỏi chủ mình là ông Philemon (Phi-lê-môn). Ông gặp thánh Phaolô và trở lại đạo. Điều này được kể lại trong Thư gửi ông Philemon (Plm), một thư viết tay cho thấy khía cạnh nhân ái và từ tâm trong nhân cách của của thánh Phaolô. Phaolô xin ông Philemon (người cũng có lẽ do thánh Phaolô rửa tội) tỏ một thái độ Kitô giáo với người nô lệ hoán cải, thậm chí ngài nói sẵn sàng trả nợ mà Onesimus đã mắc (có thể là các vật có giá trị bị mất) (Plm 1:8-21). Phaolô kết thúc lời van xin bằng cách diễn tả sự tin cậy đối với ông Philemon "Tôi biết rằng anh sẽ còn làm hơn những gì tôi xin nữa" (Plm 21). Người ta kể rằng ông Onesimus không chỉ được tha thứ, mà còn được trả tự do hoàn toàn nữa. (Từ nguyên Hi Lạp onesimos, có lợi, có ích.)

Ontogenesis
Phát sinh cá thể, phát triển cá thể. Là sự phát triển của một sinh vật, để phân biệt với sự gia tăng của lòai vật ấy. Áp dụng vào con người, đây là lịch sử tiến triển của mỗi người, với tư cách là một cá nhân. (Từ nguyên Hi Lạp ontos, hữu thể + genesis, nguồn gốc.)

Ontologism
Thuyết bản thể, trực thể luận, duy hữu thể. Là một thuyết chủ trương rằng mỗi người có một thấu thị trực giác về Chúa, và thấu thị này là nguồn và là nền tảng cho mọi tri thức của con người. Phát sinh với hiện tượng thần nghiệm của thuyết Plato, thuyết này được Marsilio Ficino (1433-99) nêu ra đầu tiên, sau đó được tổ chức có hệ thống bởi Nicolas Malebranche (1638-1715), và được Vincenzo Gioberti (1801- 52) khai triển. Thuyết bị Bộ Thẩm tra lên án năm 1861 là sai lạc dưới triều Đức Giáo hoàng Piô IX.

Ontology
Hữu thể học. Là khoa học về hữu thể. Trong triết học kinh viện, khoa này là tương đương với siêu hình học, hoặc ít là một nhánh của siêu hình học bàn bạc về triết học của thực tại. (Từ nguyên Hi Lạp ontos, hữu thể + logia, khoa học, tri thức.)

Open Placement
Sự sắp đặt mở. Là tập quán trong một số Dòng tu cho phép các thành viên quyết định về công tác hoặc việc tông đồ của họ, với sự chấp thuận chính thức của bề trên nhưng không tùy thuộc thật sự vào quyền của bề trên.

Operating Grace
Ơn hoạt động. Tương đương với ơn phòng ngừa hay ơn dự phòng, ơn này đi trước sự đồng ý tự do của ý chí, hoặc đi kèm ý chí trong thực thi một hành động. Tư tưởng về làm việc lành tự gợi ý hành động mà không có nỗ lực về phía con người, như là một xung năng vô tình.

Operative Habit
Tập quán hoạt động. Là một khuynh hướng, hoặc phú bẩm hoặc thủ đắc, mà qua đó một khả năng con người trở nên thành thạo trong hoạt động. Do đó mọi nhân đức (và tật xấu) là các tập quán hành động, để phân biệt với tập quán thuộc hữu thể tính của ơn thánh hóa.

Opinion
Ý kiến, dư luận, quan điểm. Là sự đồng ý của một lập trường có thể có, mà không chắc chắn lọai trừ sự mâu thuẫn của nó như là không đúng. Cũng là sự kết luận dựa vào bằng chứng khả dĩ nhưng không chắc chắn. (Từ nguyên Latinh opinio, từ chữ opinari, suy nghĩ.)

Opportunity
Cơ hội, dịp tốt, thời cơ. Trong luân lý, là mặt tích cực của nhân quyền trao cho con người sự tự do làm điều gì, trái với sự miễn trừ, vốn là sự tự do để làm điều gì đó.

Oppression Of The Poor
Áp bức người nghèo. Một trong những tội kêu lên tận trời xin trả thù, nhắc nhớ lại việc dân Do Thái bị áp bức ở Ai Cập "Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô lệ. Họ ta thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa" (Xh 2:23).

Optatam Totius
Sắc lệnh Optatam Totius. Sắc lệnh của Công đồng chung Vatican II về đào tạo linh mục. Sắc lệnh nhắm đến việc canh tân tòan thể Giáo hội, vốn "phần lớn tùy thuộc việc thi hành chức vụ Linh Mục đã được Thần Linh Chúa Kitô thúc đẩy." Sắc lệnh tập trung vào việc chăm sóc các ơn gọi tốt, chú ý nhiều hơn đến huấn luyện đường thiêng liêng, xem lại các môn học, chuẩn bị công tác mục vụ, và tiếp tục học tập sau khi đã được truyền chức linh mục. Sự quan tâm đặc biệt là giúp đào tạo linh mục như thế nào để cảm thức của họ về Giáo hội sẽ diễn tả vào sự gắn bó khiêm hạ và hiếu thảo với Vị Đại diện của Chúa Kitô, và sau khi truyền chức, vào sự cộng tác trung thành với các giám mục và sống hài hòa với các anh em linh mục khác (ngày 28-10-1965).

Optima Interpres Legum
Optima Interpres Legum. Người giải thích luật giỏi nhất, tập tục. Từ ngữ dùng để nói về tập tục, như là sự bình luận chính xác nhất về cách thức luật Giáo hội được hiểu như thế nào.

Optimism
Chủ nghĩa lạc quan, sự lạc quan. Là quan điểm cho rằng ý muốn ngay lành luôn thắng điều dữ, và rằng có nhiều sự lành trong thế giới hơn là sự dữ, và rằng thế giới là chủ yếu tốt lành. Nhiều tiền đề được nêu ra để ủng hộ chủ nghĩa lạc quan. Thiên Chúa, là Đấng chí thiện, được nghĩ rằng đã sáng tạo một thế giới tốt nhất có thể được. Các phát triển của khoa học hiện đại đã cổ vũ khái niệm tiến hóa phổ quát; sự gì hiện hữu là tốt lành và mọi sự thay đổi là sự tiến bộ chắc chắn xảy ra. Về tình cảm, những người chủ trương lạc quan là người chỉ nhìn các khía cạnh vui vẻ và thỏa mãn của cuộc sống, trong khi không nhìn đến khía cạnh không vừa ý. (Từ nguyên Latinh optimus, tốt nhất.)

Optional Celibacy
Đời sống độc thân tùy chọn. Là đường lối được một số giới Công giáo bênh vực, nhằm làm thay đổi tập quán từ nhiều thế kỷ qua về đời sống độc thân bắt buộc, cho linh mục trong nghi lễ Latinh của Giáo hội Công giáo. Mặc dầu đường lối này được cổ vũ mạnh mẽ trước Công đồng chung Vatican II, Công đồng chung đã tái khẳng định truyền thống của Giáo hội về luật độc thân bắt buộc cho giáo sĩ, và Công đồng tuyên bố rằng "chắc hẳn nếu càng có nhiều người trong thế giới ngày nay nghĩ rằng sự chế dục hoàn toàn không thể có được, thì các Linh Mục càng phải hiệp cùng với Giáo Hội mà khiêm nhượng và kiên nhẫn hơn nữa để cầu xin ơn trung thành, vì Chúa không bao giờ từ chối những người kêu xin" (Sắc Lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống các Linh Mục, III, 16).

Optional Memorial
Lễ nhớ tùy ý. Là một ngày lễ trong phụng vụ duyệt lại; linh mục có thể tùy chọn lễ nhớ này khi cử hành thánh lễ, và những ai đọc Phụng vụ các Giờ Kinh cũng có thể tùy chọn để đọc về lễ nhớ này. Niên lịch Roma mới có 95 lễ nhớ tùy ý. Đó là các ngày lễ kính các thánh, mà Giáo hội khuyến khích tín hữu kính nhớ, nhưng không quy định dâng lễ nhớ cách bắt buộc.

Opus Dei
Opus Dei, Thần vụ, công việc cho Chúa. Là danh từ mà Dòng Biển Đức dùng để gọi Thần vụ, hay Thần tụng, nhằm diễn tả ý nghĩa rằng cầu nguyện là trách nhiệm đầu tiên của con người đối với Chúa.

Opus Dei
Hội Opus Dei. Là một hội của các tín hữu Công giáo dấn thân vào công tác tông đồ và sống đời hoàn thiện Kitô giáo trong thế giới. Tuy nhiên, họ không từ bỏ môi trường xã hội và tiếp tục sống nghề nghiệp của mình. Được thành lập tại Madrid (Tây Ban Nha) ngày 2-10-1928, bởi Đức Ông José María Escriva de Balaguer (đã được phong thánh), hội nhận được sự chuẩn y sau cùng của Tòa thánh ngày 16-6-1950. Tên chính thức đầy đủ của hội là Societas Sacerdotalis Sanctae Crucis (Tu Hội Linh Mục Thánh giá), có trụ sở tại Roma, Ý. Có hai nhánh của hội Opus Dei, một dành cho nam và một dành cho nữ, nhưng hai nhánh độc lập với nhau như hai tổ chức riêng, chỉ thống nhất trong con người của vị Giám Quản chung. Nhánh phụ nữ được thành lập năm 1930. Một tổng công hội, gồm người của nhiều quốc gia, trợ giúp vị Giám quản trong việc điều hành hội. Các linh mục thuộc về Hội Opus Dei và thành viên của Hội Opus Dei được truyền chức linh mục. Những người đã kết hôn cũng có thể thuộc về Hội Opus Dei, tự hiến sống đời hoàn thiện Kitô giáo trong bậc sống của mình. Các cộng tác viên, không là thành viên chính thức của Hội, giúp đỡ trong nhiều công tác tông đồ khác nhau.

O.R.
O.R., Office of Readings, Kinh sách.
Or
Or, Oratio--cầu nguyện, kinh.

Orate Fratres
Orate Fratres, "Anh chị em hãy cầu nguyện". Là lời mở đầu của kinh nguyện, nói với tín hữu sau khi Dâng lễ trong thánh lễ: "Anh chị em hãy cầu nguyện, để hy lễ của tôi cũng là của anh chị em, được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận." Câu đáp của tín hữu nhấn mạnh sự khác biệt và sự giống nhau giữa hy lễ của linh mục trên bàn thờ và hy lễ của các tín hữu.

Oratio Imperata
Oratio Imperata, Lời nguyện buộc đọc. Là lời cầu nguyện theo ý chỉ đặc biệt, ngoài lời cầu nguyện được qui định theo nghi thức, mà Đức Giáo hòang hoặc vị Giám mục giáo phận có thể yêu cầu đọc trong Thánh lễ, chẳng hạn cầu cho hòa bình.

Oration
Tổng nguyện. Là lời nguyện phụng vụ, đặc biệt trong Thánh lễ, và thường được đồng hóa với lời nguyện đầu lễ, được đọc trước bài đọc Kinh thánh. Nói chung, tổng nguyện là lời kinh chính thức để ca tụng và xin ơn, được thưa với Chúa, Đức Mẹ, các thiên thần hoặc các thánh.

Oratorians
Tu sĩ Dòng Oratory. Dòng này do thánh Philip Neri thành lập năm 1564 và được Đức Giáo hòang Phaolô V phê chuẩn năm 1612. Đây là Hội Dòng các linh mục triều, là một tu hội có đời sống chung. Qua nhiều năm tháng, tu hội có nhiều cộng đoàn độc lập, và sau cùng tạo nên một liên hiệp vào năm 1942. Thành viên là các linh mục và tu huynh sống đời sống chung, nhưng không có lời khấn công khai. Bề trên được bầu cứ ba năm một lần. Mục đích của Dòng là cổ vũ sự phát triển thiêng liêng và văn hóa qua công tác mục vụ, rao giảng và dạy dỗ, nhất là cho sinh viên học sinh và giới trẻ.

Oratorio
Oratorio, nhạc phẩm Ôratô. Là một bài ca dài kiểu kịch nghệ dành cho đơn ca, hợp ca và dàn nhạc đệm, nội dung thường dựa vào một trình thuật trong Kinh thánh.

Oratory
Nhà nguyện, nguyện đường. Là một địa điểm cầu nguyện khác với nhà thờ giáo xứ, được giáo quyền cho phép để cử hành Thánh lễ và làm việc đạo đức tại đó. Nhà nguyện có thể là công cộng, bán công cộng hoặc tư riêng và không nhằm sử dụng cho đại chúng.

Ord
Ord, Ordo, ordinatio, ordinarius--trật tự, Giáo lịch, phong chức, bản quyền.

Order
Trật tự, thứ tự, Dòng tu, chức thánh, phẩm, nghi thức, giai cấp, hội. Là sự sắp xếp các vật có phương pháp; Dòng tu, là một tố chức gồm nhiều người, liên kết với nhau bằng sự ràng buộc chung và sống theo qui định tôn giáo hay xã hội; là một thứ bậc trong thừa tác vụ Kitô giáo; là phẩm ca đoàn trong các phẩm thiên thần; là một phụng hội hay một hội; là hình thức quy định cho buổi phụng vụ, chẳng hạn Lễ quy; là một nhóm người cùng công việc, cùng nghề nghiệp, hay cùng hội. (Từ nguyên Latinh ordo, thứ tự, bậc, hàng.)

Order, Religious
Dòng tu. Là một Hội Dòng nam hay nữ, trong đó ít nhất một số người có lời khấn trọng về khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.

Orders, Anglican
Các chức thánh Anh giáo. Vấn đề hiệu lực tính của việc truyền chức linh mục Anh giáo đã được Đức Giáo hòang Lêo XIII bác bỏ trong văn kiện Apostolicae Curae (ngày 13-9-1896). Việc truyền chức này được tuyên bố là "vô hiệu lực tuyệt đối và vô giá trị hoàn toàn", dựa vào nền tảng là thiếu mô thức trong nghi lễ và thiếu ý hướng nơi thừa tác viên. Trong trường hợp Roma không đưa ra tuyên bố này, các chức thánh Anh giáo vẫn bị xem là vô hiệu lực trong thực hành, bởi vì các giáo sĩ Anh giáo được yêu cầu phải lãnh chức linh mục lại sau khi họ gia nhập Công giáo. Kể từ tuyên bố của Đức Giáo hòang Lêo XIII, rất ít người Anh giáo được truyền chức linh mục bởi các giám chức Chính thống giáo và các giám chức khác, vì chức thánh của các giám chức này được Roma xem là có hiệu lực. Tuy nhiên, quy định hiện nay của Giáo hội Giám chế (Episcopal) tại Mỹ (và nơi khác) đưa ra hai hình thức truyền chức thánh, tùy theo sự chọn lựa của ứng viên và của Giám mục; một hình thức là dành cho chức linh mục và một dành cho thừa tác vụ không linh mục.

Nguyễn Trọng Đa
http://vietcatholic.net/News/Html/71987.htm

Wednesday, September 16, 2009

Pope's speech distorted, catechumen, dissident bloggers arrested

VietCatholic News (30 Aug 2009 15:10)
The distortion of a Pope's speech on Vietnam state media has cast shadows of sadness among Catholics, and led to an on-going string of arrests.

A catechumen blogger who has been actively defending the Church in Vietnam was arrested on Thursday Aug. 27 and others are facing the same risk of arrest for their swift reactions against the distortion of Pope Benedict XVI's speech to Vietnamese bishops on their ad limina visit on June 27, 2009.

On Saturday Aug. 29, Reuters reported from Hanoi: "Bui Thanh Hieu, who wrote online under pen name 'Nguoi Buon Gio', which literally means Wind Trader, was picked up by police in Hanoi on Thursday and has not answered his telephone or been heard from since, said one acquaintance, who declined to be named out of concern for his own safety."

Speaking to Asia-News, Redemptorist Father Peter Nguyen Van Khai of Hanoi monastery added: "I confirm that blogger Bui Thanh Hieu, a catechumen of Hanoi Archdiocese who has been actively studying catechism in order to receive Baptism, has been detained by police since Thursday."

Alarmingly, "his arrest certainly is not the last one," warned Sr. Emily Nguyen from Vinh Diocese.

"Many Catholic bloggers have criticized 'a shameful distortion' by state media against Pope Benedict XVI's speech to Vietnamese bishops on their ad limina visit. They are facing possible risk of an arrest," she explained.

On Aug. 24, Vietnam Net, a state media outlet, published an article titled "A good Catholic is a good citizen" in which it quoted several phrases from Benedict XVI's speech to Vietnamese bishops on June 27, 2009 to promote the idea that "Pope Benedict XVI strictly warned Vietnamese bishops to concern more about priests who should strive for holiness in order to be able to guide their flocks to live as the pope expects: 'a good Catholic is a good citizen'".

Quoting two phrases from the Pope's speech: "the priest must deepen his inner life and strive for holiness', and 'Lay Catholics for their part must demonstrate with their own life, which is based on charity, honesty and love for the common good, that a good Catholic is also a good citizen". By its own account, the article seems to paint a somber picture of the Church in Vietnam in which priests have neither deepened their inner life nor striven for holiness; and lay Catholics have been neither charitable, nor honest, thus can't be good citizens. Obviously, it tries to make an impression on readers that Pope Benedict XVI himself had insulted the Church in Vietnam for its spiritual corruption," said Hanoi's Fr. Joseph Nguyen.

"It has cast shadows of sadness among Catholics," he lamented. "We all know that His Holiness Benedict XVI did not mean that." The whole speech of Pope Benedict XVI to Vietnamese bishops on their ad limina visit on June 27, 2009 can be read here: http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2009/june/documents/hf_ben-xvi_spe_20090627_ad-limina-viet-nam_en.html

At the meeting with Vietnamese bishops, Pope Benedict XVI told them: "You know, as well as I do, that healthy collaboration between the Church and the political community is possible." The sentence was seized as "crystal clear evidence" that Church leaders in Vietnam have not been following the policy of peaceful dialogue with the government, yet maintaining a hostile attitude against the communist government.

Contrary to what the state claims, Church leaders and Catholics in Vietnam have been very patient in seeking peaceful dialogue with the government. Recently, in the incident at Dong Hoi where Vietnamese police brutally beat hundreds of Catholic in Tam Toa, reducing two priests to the point of death, Vietnamese Catholics have never called for "teeth for teeth, eyes for eyes". Rather, they have kept calling for peaceful dialogues. But all have gone into deaf ears. Ironically, the only response they get from the authority is the harassment and eventually an arrest of those who blew the whistle on the governmental mistreatment toward its citizens, namely the journalists and the bloggers

The government has refused any dialogue and later decreed to bulldoze the Tam Toa church while police and groups of thugs in Dong Hoi city have taken the streets and attacked those whom they saw wearing Catholic religious symbols.

The article also went as far as interpreting the "healthy collaboration between the Church and the government" that Pope Benedict XVI suggested as the submission of Catholics to the communist government.

"In essence, we have been alarmed and disgusted at the attempt of the writer to depict The Successor of Peter as an ally of one of the most tyrannical regimes in the world, and its implication that the Church would require complete submission to government in all circumstances" Fr. Joseph Nguyen added.

More outrageously, a phrase in the speech when Pope Benedict XVI stated: "Her [the Church] intention is certainly not to replace government leaders", was interpreted as Vatican had known in advance a plot of Catholic priests to overthrow the government, suggesting all Vietnamese bishops to extinguish such attempts at once.

"The next day, television channels, radio stations, and newspapers re-broadcasted the article with great emphasis and calls for urgent arrests and punishments against some Catholic priests in Thai Ha and Vinh diocese," Sr. Emily Nguyen reported.

This is not the first time state media has distorted of Catholic leaders 'statements to incite violence against Catholics.

Almost a year ago, reporting on the meeting between the delegation of Hanoi archdiocese's office, led by the archbishop himself; and Hanoi People's Committee, led by chairman Nguyen The Thao on Sep. 20 2008, state media had seized on an isolate phrase in a comment by the archbishop and pulled it out of context in order to condemn him. Here is the full text of his comment: "Hence, we want to repeat here our wish to build up the nation as a great united block. Travelling overseas often, we feel humiliated to be carrying a Vietnamese passport because wherever we go, we are always examined scrupulously [by customs agents]. We are really sad. We desire our country becomes stronger so that we can be like Japanese citizens who can pass through everywhere without being inspected. Koreans already enjoy that. We hope Vietnam becomes a strong, united country, so that we are respected everywhere we go."

His comment was condensed by state-controlled media into a few words: "we feel humiliated to be carrying a Vietnamese passport" in order to condemn him of smearing the nation, and thus causing the fury of people in the capital. Obviously, the quote was left out of context to interpret the speaker's comment in the opposite way.

The next day at the sacred shrine of Our Lady at Thai Ha parish at 0:05 am Monday Sep. 22 2008, it would make one's hair stand on end listening to the scream of hundreds of government thugs who in their fury smashed everything within their reach, shouting slogans and calling for Archbishop Joseph Ngô Quang Kiệt's head. It should be noted that everything happened clearly in view of a large number of officials who were in charge of keeping security and safety in the area.

For months following the incident, the archbishop had been under virtual house arrest. The archbishop's office was closed. His staff had locked the gate outside the office to prevent sudden attacks by the pro-government mobs that gathered regularly outside, yelling slogans in praise of Communism and questioning the prelate's patriotism. Some of his normal activities had also been delayed or cancelled due to security reasons. Archbishop Ngo could not leave his residence without confronting the mobs, and the faithful dared not call on him for the same reason.

The distortion of a statement of the highest leader of Catholics in the world has cast shadows of doubt and frustration among Catholics throughout Vietnam and abroad. Catholics have since shown strong, swift, defiant reactions through Internet blogs - the unique way to express peacefully their opinions as all other public media are in state control.

Some have simply delivered the Vietnamese translation of the Pope Benedict XVI's speech. Others have argued that the Church would not require her faithful to obey unquestioningly tyrants and governments which promote injustices and policies that go against Church teaching. "Surely, no Catholics should follow the policy of Population Control through Abortion as Family Planning. they should rather condemn it," blogger An Dan wrote.

Arguments on the submission to government have gone as far as calls into question the very legitimacy of the communist's rule. Some bloggers have argued that a government has just power only if that power has been bestowed by the people. Historically, communists took control of the government by violent force, and so far no democratic elections have been held.

Vietnamese government seems to be ready to take extreme steps to silence the dissents. Hieu's arrest occurred just days after another dissident blogger Huy Duc, a journalist of the newspaper Saigon Tiep Thi (Saigon Marketing) was told to leave the newspaper he worked for. Early this week, he had been forced to leave the paper due to his posting that praised the fall of the Berlin Wall and criticized the former Soviet Union's Communist leaders, saying their rule had led to years of misery for the people of Eastern Europe. Notably, the wall was referred in his article as "the wall of shame".

The fate of the bloggers remains unknown as of now, even to their families.

J.B. An Dang
http://vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=70709

Sunday, September 13, 2009

Dien van cua Duc Thanh Cha Benedict XVI



Diễn văn của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đọc trong buổi triều yết dành cho các Đức Giám mục Việt Nam ngày 27-6-2009, Vatican

Kính thưa Đức Hồng y
Anh Em trong Hàng Giám mục quý mến,

Thật là niềm vui mừng lớn lao khi tôi được tiếp đón Anh Em, các mục tử của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam. Cuộc gặp gỡ của chúng ta có một ý nghĩa đặc biệt trong những ngày này khi toàn thể Giáo Hội trọng thể mừng kính các Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và cuộc gặp gỡ này đối với tôi là một sự nâng đỡ lớn lao vì tôi vẫn biết các mối dây liên hệ thật sâu xa trong sự trung thành và tình thương mà các tín hữu của xứ sở của Anh Em vẫn có đối với Giáo Hội và đối với Đức Thánh Cha.

Chính tại Mộ của hai Vị Tông đồ Cả mà Anh Em đến để bày tỏ sự hiệp thông của Anh Em đối với Người Kế vị thánh Phêrô và tăng cường sự hiệp nhất cần phải luôn được thể hiện giữa Anh Em và phải lớn lên thêm nữa. Tôi cám ơn Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục giáo phận Đà Lạt, Chủ tịch Hội đồng Giám mục của Anh Em, vì những lời thân thương mà ngài đã nói với tôi nhân danh Anh Em. Xin cho phép tôi chào thăm cách đặc biệt các giám mục được bổ nhiệm tại Việt Nam từ lần thăm viếng ad limina cuối cùng trước đây. Tôi cũng muốn tưởng nhớ ở đây Đức Hồng y đáng kính Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, Tổng Giám mục Hà Nội trong nhiều năm. Cùng với Anh Em, tôi tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhiệt thành mục tử mà Ngài đã thể hiện cách khiêm nhường trong tình yêu hiền phụ sâu xa đối với đoàn dân của Ngài và với tình huynh đệ lớn lao đối với các linh mục. Chớ gì gương thánh thiện, khiêm tốn, lối sống đơn sơ của các vị mục tử vĩ đại của xứ sở của Anh Em, trở nên cho Anh Em những gương khích lệ trong sứ vụ giám mục khi phục vụ dân tộc Việt Nam, dân tộc mà tôi biểu lộ lòng trân trọng sâu xa.

Anh Em trong Hàng Giám mục thân mến, Năm Linh mục vừa bắt đầu được mấy ngày qua. Năm này cho phép chúng ta làm sáng tỏ sự cao cả và vẻ đẹp của sứ vụ của các linh mục. Tôi vui mừng tỏ lòng biết ơn các linh mục giáo phận và các linh mục tu sĩ của xứ sở của Anh Em vì đã hiến dâng đời sống cho Chúa và vì những cố gắng mục vụ để mưu cầu công việc thánh hóa Dân Thiên Chúa. Anh Em hãy lo lắng cho họ, hãy bày tỏ tràn đầy lòng cảm thông và hãy giúp đỡ các linh mục để hoàn thành việc thường huấn của họ. Để trở nên người hướng đạo chính thực và theo như lòng Chúa và để theo đúng các giáo huấn của Giáo Hội, linh mục phải đào sâu đời sống nội tâm và lo hướng tới sự thánh thiện như Cha sở thánh thiện và khiêm nhường của họ Ars đã tỏ ra. Sự phát sinh dồi dào các ơn gọi linh mục và tu sĩ, nhất là trong đời sống thánh hiến của nữ giới, đó là một ơn huệ mà Chúa Kitô ban cho Giáo Hội của Anh Em. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì những đặc sủng riêng này và Anh Em đang khuyến khích nhưng vẫn tôn trọng và cổ võ.

Trong Bức Thư Mục vụ năm vừa qua, Anh Em đã biểu lộ mối quan tâm đặc biệt đối với các tín hữu giáo dân khi làm cho rõ ràng vai trò của ơn gọi của họ trong phạm vi gia đình. Thật là điều rất đáng mong ước, đó là mỗi gia đình công giáo, trong khi dạy cho con cái biết sống hòa hợp với Phúc Âm qua một lương tâm ngay thẳng, trong sự liêm chính và sự thật, thì gia đình trở nên trung tâm các giá trị và đức tính nhân bản, một trường dạy đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa. Còn phần họ, các giáo dân công giáo phải làm sao tỏ ra bằng đời sống của họ dựa trên đức ái, sự lương thiện, việc quý trọng công ích, vì mỗi người công giáo tốt cũng là một công dân tốt. Để được như thế Anh Em hãy chú ý cẩn thận mà tạo cho họ có được việc huấn luyện tốt trong khi cổ võ đức tin và trong mức độ văn hóa để họ có thể phục vụ hữu hiệu Giáo Hội và xã hội. Tôi muốn trao phó một cách đặc biệt cho sự lo lắng ân cần của Anh Em các người trẻ, đặc biệt là các người trẻ tại nông thôn là những người đang bị cuốn hút về thành phố để thăng tiến học hành cấp cao hơn và để tìm được việc làm. Mong rằng Anh Em tìm ra được đường hướng mục vụ thích hợp cho các người trẻ di dân trong nước này, qua việc tăng cường sự hợp tác giữa các giáo phận gốc của người trẻ và các giáo phận họ đến và bằng việc đưa ra các lời khuyên bảo trong phạm vi luân lý và các chỉ dẫn thực hành.

Giáo Hội tại Việt Nam hiện đang chuẩn bị mừng 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm tại Việt Nam. Việc mừng biến cố này sẽ được đánh dấu cách rất đặc biệt bằng Năm Thánh vào năm 2010, sẽ làm cho Giáo Hội này hăng say chia sẻ niềm vui đức tin với tất cả mọi người Việt Nam trong khi canh tân những dấn thân truyền giáo. Ơn huệ này đã được tiếp nhận cách quảng đại, đã sống và được chứng nhận bằng đông đảo các Vị Tử đạo, là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa. Theo ý nghĩa này, chứng tá về Chúa Kitô là một việc phục vụ cao cả nhất mà Giáo Hội có thể hiến tặng cho dân tộc Việt Nam và cho tất cả mọi người tại Á Châu, bởi vì nó đáp ứng lại sự tìm kiếm sâu xa chân lý và các giá trị bảo đảm cho sự phát triển nhân bản toàn diện (x. Giáo Hội tại Á Châu). Trước những thách đố thật nhiều mà chứng tá này hiện đang gặp phải, thì một sự hợp tác chặt chẽ giữa các giáo phận với nhau, giữa các giáo phận với các dòng tu, cũng như giữa các dòng tu với nhau là thật cần thiết.

Bức thư mục vụ mà Hội đồng Giám mục của Anh Em công bố năm 1980, nhấn mạnh về điểm "Giáo Hội Chúa Kitô giữa lòng Dân Tộc". Trong khi đem tới cái cá biệt của mình – là việc loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô – Giáo Hội đóng góp vào việc phát triển nhân bản và thiêng liêng của con người, nhưng cũng đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xứ sở. Việc tham gia vào tiến trình này là một bổn phận và một sự đóng góp quan trọng nhất là trong lúc mà nước Việt Nam cũng đang nhận ra việc từ từ cởi mở đối với cộng đồng quốc tế.

Anh Em cũng như tôi đều biết rằng một sự hợp tác lành mạnh giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị có thể thực hiện được. Về điểm này, Giáo Hội mời gọi các phần tử của mình dấn thân một cách lương thiện để xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Giáo Hội không đòi hỏi phải thay thế các nhà trách nhiệm của Chính Phủ, nhưng chỉ mong rằng Giáo Hội có thể, trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau, góp phần xứng đáng vào sinh hoạt quốc gia, vào việc phục vụ tất cả người dân. Trong khi tham gia cách tích cực, theo như chỗ đứng xứng đáng dành cho mình vào theo ơn gọi cá biệt của mình, Giáo Hội không bao giờ miễn trừ cho mình việc thực hành bác ái theo như các hoạt động được tổ chức của các tín hữu, và, đàng khác, không bao giờ có một tình trạng trong đó mà người ta lại không cần tới bác ái của mỗi Kitô hữu, bởi vì con người, ngoài công bình ra, vẫn cần và sẽ còn cần tới tình yêu (Tđ. Thiên Chúa là tình yêu, s. 29). Ngoài ra, tôi thấy điều này là quan trọng là phải nhấn mạnh rằng các tôn giáo không gây ra một mối nguy hiểm cho tình đoàn kết quốc gia, bởi vì tôn giáo nhằm giúp đỡ cá nhân thánh hóa chính mình và, qua các cơ chế, các tôn giáo quảng đại tự đặt mình phục vụ tha nhân trong cách thế hoàn toàn vô vị lợi.

Kính thưa Đức Hồng y, Anh Em trong Hàng Giám mục, khi Anh Em trở về nhà, xin Anh Em hãy chuyển lời chào thăm nồng nhiệt của Đức Giáo Hoàng tới các linh mục, tu sĩ nam nữ, tới các chủng sinh, các giáo lý viên và tới tất cả tín hữu, nhất là những người nghèo khổ và đau đớn phần hồn và phần xác. Tôi nồng nhiệt khuyến khích tất cả hãy trung thành với đức tin đã lãnh nhận từ các Thánh Tông đồ mà họ là chứng tá quảng đại trong các hoàn cảnh thường là khó khăn và hãy khiêm nhường tỏ ra sự kiên quyết mà Tông Huấn "Giáo Hội Tại Á Châu" (s. 9) đã chân nhận như là đặc tính của họ. Xin Chúa Thánh Thần của Đức Kitô là Vị hướng đạo và là sức mạnh cho họ. Tôi trao phó Anh Em cho sự che chở hiền mẫu của Đức Mẹ La Vang và nơi sự bầu cử của các Thánh Tử đạo Việt Nam, tôi vui lòng ban cho tất cả Phép Lành Tông Tòa trong tình thân mến.

+ ĐTC Bênêđictô XVI

Người dịch: Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả Rôma, 27-6-2009