Lm Phaolô Nguyễn Văn Tùng
LTG: Có người đã đề nghị dùng chữ Thánh Kinh, thay vì Kinh Thánh. Thiết tưởng đây là một từ Hán Việt được xử dụng thông thường đến nỗi dường như đã bị Việt hóa rồi. Nếu như vậy thì phải nói cho đúng văn phạm trong ngôn ngữ nước ta. Chữ Kinh (Lời của Chúa) là danh tự, Thánh là tĩnh tự. Trong tiếng Việt, danh tự luôn luôn đi trước tĩnh tự. Thí dụ: Người ta nói "cây xanh" chứ không ai nói "xanh cây"cả. Như vậy chữ Kinh Thánh chuẩn hơn.
Nếu người đọc dùng Kinh Thánh bằng tiếng Việt thì không là một vấn đề lớn vì cho đến nay ở Việt Nam mới chỉ có vài bản dịch Công Giáo. Bản dịch Kinh Thánh mới nhất vừa được phát hành ở Việt Nam năm 1999 đã do "Nhóm Giờ Kinh" dịch thuật. Bên các giáo hội Tin Lành, cũng đã có bản dịch Kinh Thánh toàn bộ do Bible Society (Hội Kinh Thánh) xuất bản.
Tuy nhiên, nếu người đọc, nhất là giới trẻ, dùng Kinh Thánh bằng tiếng Anh thì cần lưu ý một vài điểm quan trọng để tránh tình trạng "tìm không ra" đoạn Kinh Thánh mình muốn trích dẫn.
Lý do? Các bản dịch của bên Tin Lành đã không có 7 quyển sách trong Cựu Ước mà Công Giáo đã công nhận. Trong đó có các quyển Tôbia (Tobit) và Huấn Ca (Ecclesiasticus hay Sirach) mà giới trẻ thích trích dẫn vào dịp lễ hôn phối (Tob. 8:5-7; Sir. 26:1-4, 13-17).
Người ta cần ngược dòng lịch sử để có một cái nhìn tổng quát và tương đối khách quan về việc hình thành bộ Kinh Thánh.
CÁC BẢN DỊCH CỦA NGƯỜI DO THÁI
Người Do Thái có thể đã bắt đầu có các văn bản Kinh Thánh từ thế kỷ 12 trước Công Nguyên (B.C.) và việc hệ thống hóa các văn bản ấy được tiếp diễn liên tục trong khoảng một ngàn năm. Cuối cùng các văn bản ấy được công nhận cách chính thức là giáo huấn của Chúa đã mạc khải cho dân của Ngài qua sự linh ứng cho người viết. Toàn bộ những "quyển sách" được công nhận này được gọi là Qui Ðiển (Canon).
Kinh Thánh được tồn tại và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác là nhờ công sức của những người sao chép (Copyists hay Scribes) mà một vài dịch giả gọi là "Ký Lục." Truyền thống này còn được tiếp tục sang thời Tân Ước cho đến khi nhân loại có các ấn bản Kinh Thánh đầu tiên vào thế kỷ thứ 15 sau Công Nguyên (A.D.)
Tuy nhiên các văn bản cổ thời nhất đã bị thất lạc hay bị hủy hoại vì thời gian hoặc chiến tranh. Quyển sách thánh được coi là cổ nhất là sách của tiên tri Isaiah và một số văn bản rời rạc của các sách khác đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 3 (B.C.)
Ngoại trừ một vài bản được viết bằng tiếng A-ram (Aramaic), toàn bộ Cựu Ước của người Do Thái đã được viết bằng tiếng Do Thái (Hebrew). Ðến sau thời lưu đày (thế kỷ thứ VI, B.C.), tiếng Aram đã trở nên thông dụng trong những cộng đồng Do Thái do đó các bản dịch Kinh Thánh đã chuyển qua tiếng Aram.
Ðến thời vua Alexander Ðại Ðế (Thế Kỷ IV, B.C.) và về sau, tiếng Hi Lạp đã trở nên thông dụng trong khắp miền Ðịa Trung Hải (Mediterranean Sea). Các bản dịch Kinh Thánh lại được chuyển qua tiếng Hi Lạp. Văn bản Kinh Thánh bằng tiếng Hi Lạp nổi tiếng nhất là bộ Ngũ Kinh (Pentateuch) năm quyển sách thánh đầu tiên trong Cựu Ước mà người Do Thái gọi là "Torah" hay Lề Luật. Bản dịch này có tên là "Septuagint" mà tiếng Việt gọi là bản "Thất Thập" hay bản "Bảy Mươi." Chữ Septuagint được dùng trong Cựu Ước để chỉ 70 nhân vật đứng đầu trong dân (Kỳ Mục) được tuyển chọn để làm phụ tá cho ông Môi-Sen (Xuất hành 24:1). Tương truyền rằng bản dịch này đã được hoàn tất bởi 70 hay 72 học giả thuộc cộng đồng Do Thái ở Alexandria (Ai cập) vào khoảng năm 250 B.C.
Cũng vào thời này, một số sách khác đã xuất hiện và được các cộng đồng Do Thái công nhận. Ðó là các quyển: Tôbia, Judith, Macabê 1 và 2, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruch, và một ít văn bản bổ túc cho các sách Esther và Daniel.
Sang thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, người Kitô giáo đã công nhận toàn bộ Cựu Ước theo bản dịch Hi Lạp cùng với những sách mới. Tuy nhiên, vào khoảng cuối thế kỷ này, hội đồng Do Thái đã có khuynh hướng dùng lại bản Hebrew và vì có tinh thần bài Kitô giáo, nên họ đã họp ở Jamnia và quyết định rằng chỉ có các sách viết bằng tiếng Hebrew và cho đến quyển Ezra là được cho vào qui điển. Như vậy là họ đã không công nhận 7 quyển sách mới có trong bản dịch Hi Lạp. Ít nhiều họ đã xử dụng những quyển sách thánh nói trên trải qua hơn ba thế kỷ. Sau này người ta còn tìm biết được rằng có nhiều phần trong các quyển sách được kể là có trước Ezra. Như vậy tính theo thời gian, Ezra đã được viết cùng lúc hay sau những quyển sách mới!
Toàn bộ Tân Ước gồm 27 quyển đã được viết bằng tiếng Hi Lạp, cho đến ngày nay vẫn được tất cả các Kitô hữu, (gồm Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống v.v...) công nhận.
BẢN DỊCH TIẾNG LA TINH
Trong thời đế quốc La Mã (Roman Empire) tiếng La Tinh đã là ngôn ngữ thông dụng. Một vài sách trong Kinh Thánh đã được dịch qua tiếng La Tinh, nhưng thiếu đồng nhất và nhiều sơ sót. Do đó, năm 382, Ðức Giáo Hoàng Damasus I đã "sai" thánh Jerome, (tiếng Việt có người phiên âm là Hiêrônimô, có lẽ theo tiếng Tây Ban Nha) nghiên cứu và dịch toàn bộ Kinh Thánh qua tiếng La Tinh.
Thánh Jerome đã phải làm việc ròng rã trong hơn 20 năm. Tương truyền rằng có khi ngài đã xử dụng một căn hầm ngay dưới nền nhà thờ nơi Chúa sinh ra ở Bethlehem để dịch thuật. Thánh nhân đã xử dụng bản Cựu Ước tiếng Do Thái, bản Hi Lạp Septuagint, những bản đã được dịch qua tiếng La Tinh. Phần Tân Ước, ngài đã dịch từ nguyên bản tiếng Hi Lạp.
Công trình dịch thuật của thánh Jerome đã hoàn tất vào năm 405 và bản dịch này được gọi là Vulgata "the Common Version" (Bản dịch Thông Dụng). Kể từ đó bộ Kinh Thánh Vulgata đã được xử dụng cách chính thức trong giáo hội Công Giáo. Năm 1546, trước những cao trào cải cách (Reformation) và dịch thuật Kinh Thánh khác, các nghị phụ trong công đồng Trent đã tuyên dương thánh Jerome và tái xác định sự chính thức của bộ Vulgata trong giáo hội Công Giáo Roma.
NHỮNG BẢN DỊCH TIẾNG ANH
Kitô Giáo đã được rao giảng ở Anh Quốc hơn một ngàn năm trước khi có bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng Anh. Bản dịch đầu tiên là do công sức của nhóm ông John Wyclif hoàn thành vào năm 1382. Họ đã dịch toàn bộ Kinh Thánh từ bản Vulgata. Nhóm của ông Wyclif đã bị Tòa Thánh La Mã (Roma) kết án vì họ đã làm việc này mà không có phép.
Người thứ hai là ông William Tyndale (1494-1536). Ông này đã chịu ảnh hưởng nhiều bởi nhà nhân bản học (humanist) Erasmus và nhà cải cách (hay thệ phản - protestant) Martin Luther, người đã chống giáo hội Công Giáo La Mã, cũng dịch Tân Ước qua tiếng Ðức. Từ năm 1525, ông Tyndale sống ở Cologne (Ðức) dịch bộ Tân Ước và lén gửi về Anh. Vì vậy, ông đã bị giáo hội Anh, lúc ấy chưa tách rời khỏi giáo hội La Mã, kết án là theo bè rối "Lu-Te-Rô" (Luther), và "giết chết sự thật.". Ông bắt đầu dịch Cựu Ước từ bản tiếng Do Thái vào năm 1530. Nhưng việc chưa thành thì ông đã bị bắt ở Antwerp và bị xử tử năm 1536.
Trong khi đó, năm 1535, vua Anh Quốc là Henry VIII đã đưa nước Anh tách rời khỏi giáo hội La Mã. Những người muốn dịch Kinh Thánh được tự do phổ biến các bản dịch của họ.
Năm 1535, bản dịch toàn bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng tiếng Anh được ông Miles Coverdale cho xuất bản. Ông này đã dùng các tài liệu từ bản tiếng La Tinh, bản dịch qua tiếng Ðức của Luther và Zwingli, cũng như từ tài liệu chưa hoàn tất của ông Tyndale.
Năm 1537, bản dịch chưa hoàn tất của ông Tyndale được một người bạn tên là John Rogers tiếp tục và cho xuất bản.
Năm 1539, ông Richard Taverner cho xuất bản bản dịch của ông với phần Cựu Ước dựa trên các bản dịch của hai ông Tyndale và Rogers.
Cũng trong năm 1539, một bản dịch tự cho là Kinh Thánh Vĩ Ðại, in bản lớn 15" (inches) và 9", có ấn tín cho phép và lệnh của vua Anh Quốc là mỗi nhà thờ Anh Giáo phải trưng bày một ấn bản này. Tuy nhiên, phần nội dung đa số chỉ in lại bản dịch của hai ông Tyndale và Rogers.
Một số bản dịch bằng tiếng Anh khác được in ở Geneva (Thụy Sĩ) trong thời nữ hoàng Mary (theo Công Giáo) 1553-58. Qua thời nữ hoàng Elizabeth I (theo Anh Giáo) các bản dịch này lại được tự do xuất bản ở Anh, trong đó có bản nổi tiếng "Geneva Bible."
Giáo hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic Church – cần nói rõ để phân biệt với một vài giáo hội cũng tự xưng là Công Giáo, nhưng không thuộc quyền Đức Giáo Hoàng) có bản dịch bằng tiếng Anh cho phần Tân Ước năm 1581. Bản này mang tên Rheims (Đức) vì các dịch giả đã làm việc ở đây. Ðến năm 1609, toàn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Anh, dựa trên bản La Tinh Vulgata đã hoàn tất. Bản dịch này mang tên "Douay Bible" vì đó là tên của một thị trấn Pháp nơi phần dịch thuật đã được thực hiện. Bản này đã được ÐGM Challoner tu chính vào năm 1750.
Bản dịch khá nổi tiếng của Tin Lành, "King James", do lệnh của vua nước Anh: James I, ra đời vào năm 1611. Ðây là công trình của một số học giả ở hai đại học Oxford và Cambridge. Phần tài liệu, các học giả này đã dựa trên tất cả các bản dịch tiếng Anh trước, kể cả bản Douay của Công Giáo, các tài liệu bằng tiếng Do Thái và Hi Lạp, một phần từ bản Vulgata, và ngay cả bản dịch bằng tiếng Ðức của ông Luther. Nhưng bản dịch có ảnh hưởng nhiều nhất trên bộ King James là phần của ông Tyndale.
Sau này các học giả đã khám phá ra rằng bản King James đã có nhiều nơi không chính xác, nhất là trong các tài liệu Do Thái và Hi Lạp mà các học giả đã trích dẫn. Có những từ đã hoàn toàn mang ý nghĩa khác. Như họ đã dùng chữ "allege: dẫn chứng cách không chắc chắn" thay vì "prove: minh chứng" (Acts 17:3); chữ "conversation: đàm thoại" thay vì "behavior: cư xử" (2 Cor. 1:12); "prevent: ngăn cản" thay vì "precede: đi trước" (1 Thes. 4:15); "reprove: khiển trách" thay vì "decide: quyết định" (Is. 11:4); "communicate: thông tri, truyền thông" thay vì "share: phân chia" (Gal. 6:6).
Do đó, năm 1870 giáo hội Anh Giáo đã cử một ủy ban dịch lại bộ Kinh Thánh. Bộ này hoàn thành vào năm 1881 và mang tên "the English Revised Version" (Bản dịch Tu Chính Anh Ngữ.)
Năm 1901 "The American Standard Version" (Bản dịch Tiêu Chuẩn Hoa Kỳ) ra đời.
Năm 1952, "The Revised Standard Version" (Bản Dịch Tiêu Chuẩn Tu Chính) hoàn tất. Bản này còn được mệnh danh là bản dịch hòa đồng tôn giáo (Ecumenical) vì đây là công trình làm việc chung của các học giả Tin Lành, Công Giáo và Do Thái (cho phần Cựu Ước). Những vị này đã đã đến từ Anh Quốc, Hoa Kỳ và Gia Nã Ðại.
Về phía Công Giáo, Hội Ðồng Giám Mục Hoa kỳ đã cho phổ biến bản dịch "Kinh Thánh Hoa Kỳ Tân Biên" (the New American Bible) vào năm 1970. Bản này tự nhận là đã dùng những tài liệu cổ thời nhất, trung thực nhất từ những văn bản bằng các thứ tiếng Do Thái, Aram, và Hi Lạp. Các tài liệu mới tìm được ở Qumran (gần Biển Chết) cũng được dùng để bổ túc cho những văn bản đã có.
Các sách không có trong bản Do Thái được gọi là "Qui Ðiển Thứ" (Deuterocanonical Books). Các giáo hội Tin Lành vào thời mới phân chia, vì muốn tách biệt hẳn với giáo hội Công Giáo đã gọi các sách này là "Ngụy Thư" (Apocrypha).
Phía giáo hội Công Giáo ngay từ đầu đã không công nhận và gọi là ngụy thư một số sách trong Cựu Ước đã có trong qui điển của Kinh Thánh Hi Lạp như: Esdras 1 và 2, Prayer of Mannasseh, Maccabê 3 và 4, Thánh Vịnh số 151. Những quyển này thường lập lại những sách đã có và thêm những chi tiết không cần thiết như Esdras 1 và 2 đối với Ezra và Nehemiah. Một số văn bản Tân Ước (không được in trong Kinh Thánh Kitô giáo) cũng bị cho là ngụy thư.
NÊN ÐỌC BẢN DỊCH KINH THÁNH NÀO?
Trở lại vấn nạn nói trên, người Công Giáo có thể sẽ không tìm thấy đoạn Kinh Thánh mình muốn, nếu xử dụng các bản dịch của những giáo hội Tin Lành. Các sách trong "qui điển thứ" xem ra được xử dụng khá nhiều trong phụng vụ Công Giáo. Từ các thánh lễ hôn phối như đã trích dẫn ở trên đến thánh lễ an táng (sách Khôn Ngoan 3:1-9; 2 Mac.12:43-46) và thánh lễ trong những ngày Chúa Nhật, ngày thường, cũng như các lễ kính riêng, đã xử dụng tất các sách nói trên, nhất là hai quyển Huấn ca và Khôn Ngoan.
Hiện tại, có ít nhất ba bản dịch Kinh Thánh Công Giáo: Kinh Thánh Hoa Kỳ Tân Biên (the New American Bible), Bản Dịch Tiêu chuẩn Tu Chính (the Revised Standard Version) ấn bản Công Giáo, và Bản Dịch Anh Ngữ Ngày Nay (Today's English Version).
Ðể hiểu Kinh Thánh cách sâu xa và rộng rãi hơn, độc giả nên dùng cuốn "Chú Giải Kinh Thánh Jerome" (the Jerome Biblical Commentary) do nhà Prentice-Hall, New Jersey, 1968. Có 80 đề tài gồm cả Cựu lẫn Tân Ước do các chuyên viên Kinh Thánh Công Giáo diễn giải.
Nếu người đọc muốn có bản dịch đầy đủ nhất vớt tất cả các phần qui điển thứ và ngụy thư thì nên dùng bộ "the Revised Standard Version, Common Bible, with the Apocrypha/ Deuterocanonical Books, an Ecumenical Edition" do nhà xuất bản Collins ở New York, năm 1973.
Những ai muốn đọc thêm thì có bộ đối chiếu bốn bản dịch thông dụng nhất của các giáo hội Tin Lành: "the Layman's Parallel Bible" do nhà Zondervan Bible Publishers ở Grand Rapids, Michgan, 1974, ấn bản thứ ba. Bộ này có các bản dịch King James, Modern Language, Living, và Revised Standard.
TÌM HIỂU CÁC SÁCH TRONG QUI ÐIỂN THỨ
Thật là thiếu sót nếu chúng ta không nhìn qua những sách thánh trong qui điển thứ. Ít nhất là để xem các tài liệu giáo huấn quí giá này thực sự có đáng bỏ đi không.
Sách Tobia: Ðược viết vào khoảng năm 200 BC, có thể là ở Palestine và bằng tiếng Aram. Sách đề cao bổn phận đối với người đã qua đời và việc lành, bác ái, ý nghĩa đời sống gia đình. Ðặc biệt sách đã nói đến hôn nhân trong tinh thần Kitô giáo và ơn Chúa quan phòng trong đời sống hàng ngày.
Sách Judith: Ðược viết vào khoảng giữa thế kỷ thứ 2 BC ở Palestine, giữa lúc khí thế cách mạng do nhóm Macabê lãnh đạo đang nổi lên mãnh liệt trong lòng dân Do Thái. Sách đề cao lòng sốt sắng cầu nguyện và tuân giữ luật thanh sạch của Chúa. Khi đẹp lòng Chúa thì Ngài có thể dùng chỉ một phụ nữ yếu đuối mà đánh bại được đạo quân hùng mạnh đang định tiêu diệt dân của Ngài.
Sách Macabê I: Ðược viết vào khoảng năm 100 BC, nhằm vào lịch sử tôn giáo thay vì chính trị hay quân sự. Tác giả nói đến những thất bại, khốn cùng như sự trừng phạt của Chúa; ngược lại, chiến thắng là phần thưởng của Ngài đối với những người trung tín, dám đứng lên bảo vệ đức tin.
Sách Macabê II: Ðây không phải là sách viết tiếp tục cho quyển I. Thể văn cũng khác, nhất là lại được viết bằng tiếng Hi Lạp cách không hoàn chỉnh; người viết cũng không thuộc thành phần "sử gia." Tuy nhiên sách này được coi là quan trọng vì những quả quyết về việc kẻ chết sống lại, sự cần thiết của những lời cầu nguyện cho kẻ qua đời, các thánh cầu bầu, hình phạt đời sau, và phần thưởng cho những người tử vì đạo. Ðây là những điểm quan trọng mà các sách khác trong Cựu Ước không đề cập rõ ràng lắm.
Sách Khôn Ngoan: Ðược viết "lại" bằng tiếng Hi Lạp vì vua Solomon đã được coi là tác giả của quyển này. Trong bản dịch Hi Lạp, sách được gọi là "Sự Khôn Ngoan của Solomon." Tuy nhiên, cũng có thể tác giả đã "gán" cho Solomon như để có sự bảo trợ của một vị khôn ngoan trong lịch sử dân Chúa. Sách nêu lên vai trò của sự khôn ngoan trong đời sống con người đồng thời so sánh số phận người khôn ngoan và kẻ gian ác trong lúc sống cũng như sau khi chết.
Sách Huấn Ca: Sách được viết bằng tiếng Hebrew (Do Thái) vào khoảng năm 190 B.C. Sau đó sách được dịch qua tiếng Hi Lạp và mang tên là "Sự khôn ngoan của Giêsu con của Sirach" (the Wisdom of Jesus the Son of Sirach). Nhưng khi được dịch qua La Tinh, sách lại mang tên Ecclesiasticus có lẽ để nhấn mạnh đến việc giáo hội chính thức chấp nhận và xử dụng. (Không nên nhầm sách này với quyển Ecclesiastes: Giảng Viên) Tuy nhiên trong các bản tiếng Anh, sách được vắn tắt gọi là Sirach. Sách nói về khởi đầu của sự khôn ngoan là việc kính sợ Thiên Chúa; khôn ngoan đem lại tươi trẻ, hạnh phúc; về vận mạng con người và việc thưởng phạt của Chúa.
Sách Baruch: Theo lời mở đầu thì sách được ông Baruch, thư ký của tiên tri Jeremiah viết tại Babylon và gửi về Jerusalem để đọc trong các cuộc hội họp phụng vụ. Theo sách này, khôn ngoan được đồng hóa với Lề Luật; Jerusalem được nhân cách hóa nói chuyện với dân bị đi đày và khuyến khích sự tin tưởng vào ơn cứu độ của Chúa. Một đoạn trong bản dịch Hi Lạp của sách Baruch đã được tìm thấy ở một trong các hang Qumran. Các thử nghiệm cho thấy bản dịch đó đã được viết vào khoảng năm 100 B.C.
Khi dịch bộ Kinh Thánh, thánh Jerome đã có những ưu tư về việc có nên dịch cả những quyển sách mới nói trên, chỉ có trong qui điển Hi Lạp mà không có trong qui điển Hebrew. Cuối cùng thì thánh nhân đã dịch hết vì những giáo huấn giá trị trong các sách ấy cũng như vì vâng lời bề trên.
Các Kitô hữu ngày nay cần tự hỏi: Khi Chúa linh ứng cho ai viết ra những mạc khải của Ngài, không lẽ Ngài chỉ muốn những mạc khải ấy hiện hữu trong một thời kỳ (hơn ba thế kỷ đối với người Do Thái hay hơn mười thế kỷ đối với những anh em Tin Lành) rồi bị thải đi? Thật khó mà biện minh cho điều này. Có chăng chỉ vì con người đã để cho những yếu tố chính trị, quyền lực, lấn át tiếng gọi thiết tha và chân thực của Ngài.
Hãy để cho sự khôn ngoan của Chúa ngự trị trong tim, trong óc của mình, người đọc sẽ tự tìm thấy đâu là chân lý.
Lm Phaolô Nguyễn Văn Tùng
http://danchuausa.net/than-hoc-thanh-kinh/nen-doc-ban-dich-kinh-thanh-nao/
03.01.2011.
"The Church invites all her members to be loyally committed to building a just, supportive and fair society. Giáo Hội mời gọi mọi phần tử của mình dấn thân cách trung thành nhằm xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng." -Pope Benedict XVI's address to Vietnamese Bishops on their "Ad Limina"
Friday, September 27, 2013
Wednesday, September 25, 2013
Phong cách Phanxicô
VRNs (15.09.2013) – Sài Gòn - Từ nửa năm nay trên báo chí công giáo xuất
hiện một từ mới. Đó là từ "PHONG CÁCH PHANXICÔ". Không khó tìm ra từ ấy
xuất phát từ đâu. Từ ấy xuất phát từ cách nói năng, hành động và cư xử
của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Ngài được bầu vào chức vụ Giáo Hoàng cho
đến nay mới được 6 tháng. Dựa vào Vatican Radio, chiều 14/09/2013 trang
WGPSG đã viết như sau: "Ngày 13-9-2013 đánh dấu đúng sáu tháng Đức
Phanxicô được bầu chọn làm Giáo Hoàng, và trong thời gian đó, ngài đã
mang lại cho chức vị Giáo Hoàng một phong cách mới. Hơi ấm tình người,
nghị lực và sự đơn giản của Ngài đã đưa đến với Giáo Hoàng rất nhiều fan
hâm mộ không chỉ nơi người Công giáo mà cả nơi khán thính giả trải rộng
trên toàn thế giới."
Phong cách mới của Đức Giáo Hoàng được báo chí gọi là "Phong cách
Phanxicô". Đó là phong cách giản dị, gần gũi, đơn nghèo, yêu thương và
trìu mến của một con người khiêm tốn và sống mật thiết với Đầng Siêu
Linh. Phong cách Phanxicô là một lời mời gọi và là một thách thức lớn
lao đối với những ai thích duy trì chủ nghĩa giáo sĩ trị (clericalism),
chủ nghĩa cha chú (paternalism) và cách lãnh đạo thống trị (dominating
leadership) trong Giáo Hội. Phong cách Phanxicô phù hợp với Giáo Lý Giáo
Hội là Dân Chúa trong đó mọi người bình đẳng với nhau, mọi người có phần
và phải góp phần (participatory Church). Phong cách Phanxicô cũng rất
phù hợp với tinh thần dân chủ của loài người văn minh ngày nay.
Cũng trong bản tin nói trên của Vatican Radio, độc giả còn được đọc
những thông tin sau đây:
"Được yêu cầu đánh giá về sáu tháng tại nhiệm đầu tiên của Đức Giáo
Hoàng, Đức Ông John Kennedy – một viên chức tại Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin
– đã phát biểu là ngài đồng ý với những người gọi Đức Phanxicô là "Đức
Giáo Hoàng của những bất ngờ" và nói rằng nhiều người cảm thấy "một cảm
giác nối kết tuyệt vời khi tiếp xúc cá nhân" với Ngài. Đức Ông nói:
người ta kể lại nhiều cử chỉ tự nhiên của Đức Giáo Hoàng như "nhấc điện
thoại lên" để nói chuyện với những người bình thường, "ra khỏi chiếc xe
jeep giáo hoàng" để tiếp cận với dân chúng trong những buổi tiếp kiến
chung. "Họ yêu thích sự đơn giản của ngài và họ được thăng hoa nhờ những
sáng kiến của ngài."
"Đồng thời, Đức ông Kennedy chỉ ra rằng: rõ ràng là Đức Giáo Hoàng
Phanxicô biết mình đi đâu. "Bạn có thể thấy ngài là người có tầm nhìn,
ngài là người có kế hoạch cho Giáo Hội…. Kế hoạch của ngài nhằm cải cách
Giáo Hội nhiều hơn." Đức Ông nói tiếp: Đức Giáo Hoàng cũng "có một thông
điệp cho toàn thế giới" và "không chỉ người Công giáo có ý kiến về ngài".
"Đức Ông Kennedy nói: Một kết quả rất đáng khích lệ của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô, là nhờ mẫu gương của ngài, Đức Giáo Hoàng đã động viên các
người Công Giáo xa lạc trở về với đức tin. "Ngài đã cho người ta thấy
những khía cạnh đẹp nhất của Giáo hội".
Một trong những bất ngờ lớn là Đức Phanxicô đã lên tiếng phê phán cách
sống quan liêu, thích nhàn rỗi, chạy theo vật chất của một số Giám Mục
Italia. Một bất ngờ lớn khác là Ngài đã bổ nhiệm một vị Tổng Giám Mục
mới 58 tuổi vào chức vụ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Vatican là chức vụ quan
trọng thứ hai sau chức vụ Giáo Hoàng: đó là Đức Tổng Giám Mục Pietro
Parolin hiện là sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela và sẽ nhậm chức vào ngày
15/10/2013 thay thế Đức Hồng Y Tarcisio Bertone đáng kính. Một bất ngờ
mới xẩy ra nhất là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ không phong chức "đức ông"
cho các linh mục có công lớn hay có chức vụ quan trọng trong Giáo Hội nữa.
Bản tin của đài Vatican kết luận: "Khi được hỏi chúng ta có thể mong đợi
gì về sáu tháng tại nhiệm tiếp theo của Đức Phanxicô, Đức Ông Kennedy
trả lời "sẽ có nhiều sự tương tự, nhiều ngạc nhiên hơn" và Đức Ông
khuyên mọi người "hãy nhìn ngắm những điều ấy!"
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
hiện một từ mới. Đó là từ "PHONG CÁCH PHANXICÔ". Không khó tìm ra từ ấy
xuất phát từ đâu. Từ ấy xuất phát từ cách nói năng, hành động và cư xử
của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Ngài được bầu vào chức vụ Giáo Hoàng cho
đến nay mới được 6 tháng. Dựa vào Vatican Radio, chiều 14/09/2013 trang
WGPSG đã viết như sau: "Ngày 13-9-2013 đánh dấu đúng sáu tháng Đức
Phanxicô được bầu chọn làm Giáo Hoàng, và trong thời gian đó, ngài đã
mang lại cho chức vị Giáo Hoàng một phong cách mới. Hơi ấm tình người,
nghị lực và sự đơn giản của Ngài đã đưa đến với Giáo Hoàng rất nhiều fan
hâm mộ không chỉ nơi người Công giáo mà cả nơi khán thính giả trải rộng
trên toàn thế giới."
Phong cách mới của Đức Giáo Hoàng được báo chí gọi là "Phong cách
Phanxicô". Đó là phong cách giản dị, gần gũi, đơn nghèo, yêu thương và
trìu mến của một con người khiêm tốn và sống mật thiết với Đầng Siêu
Linh. Phong cách Phanxicô là một lời mời gọi và là một thách thức lớn
lao đối với những ai thích duy trì chủ nghĩa giáo sĩ trị (clericalism),
chủ nghĩa cha chú (paternalism) và cách lãnh đạo thống trị (dominating
leadership) trong Giáo Hội. Phong cách Phanxicô phù hợp với Giáo Lý Giáo
Hội là Dân Chúa trong đó mọi người bình đẳng với nhau, mọi người có phần
và phải góp phần (participatory Church). Phong cách Phanxicô cũng rất
phù hợp với tinh thần dân chủ của loài người văn minh ngày nay.
Cũng trong bản tin nói trên của Vatican Radio, độc giả còn được đọc
những thông tin sau đây:
"Được yêu cầu đánh giá về sáu tháng tại nhiệm đầu tiên của Đức Giáo
Hoàng, Đức Ông John Kennedy – một viên chức tại Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin
– đã phát biểu là ngài đồng ý với những người gọi Đức Phanxicô là "Đức
Giáo Hoàng của những bất ngờ" và nói rằng nhiều người cảm thấy "một cảm
giác nối kết tuyệt vời khi tiếp xúc cá nhân" với Ngài. Đức Ông nói:
người ta kể lại nhiều cử chỉ tự nhiên của Đức Giáo Hoàng như "nhấc điện
thoại lên" để nói chuyện với những người bình thường, "ra khỏi chiếc xe
jeep giáo hoàng" để tiếp cận với dân chúng trong những buổi tiếp kiến
chung. "Họ yêu thích sự đơn giản của ngài và họ được thăng hoa nhờ những
sáng kiến của ngài."
"Đồng thời, Đức ông Kennedy chỉ ra rằng: rõ ràng là Đức Giáo Hoàng
Phanxicô biết mình đi đâu. "Bạn có thể thấy ngài là người có tầm nhìn,
ngài là người có kế hoạch cho Giáo Hội…. Kế hoạch của ngài nhằm cải cách
Giáo Hội nhiều hơn." Đức Ông nói tiếp: Đức Giáo Hoàng cũng "có một thông
điệp cho toàn thế giới" và "không chỉ người Công giáo có ý kiến về ngài".
"Đức Ông Kennedy nói: Một kết quả rất đáng khích lệ của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô, là nhờ mẫu gương của ngài, Đức Giáo Hoàng đã động viên các
người Công Giáo xa lạc trở về với đức tin. "Ngài đã cho người ta thấy
những khía cạnh đẹp nhất của Giáo hội".
Một trong những bất ngờ lớn là Đức Phanxicô đã lên tiếng phê phán cách
sống quan liêu, thích nhàn rỗi, chạy theo vật chất của một số Giám Mục
Italia. Một bất ngờ lớn khác là Ngài đã bổ nhiệm một vị Tổng Giám Mục
mới 58 tuổi vào chức vụ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Vatican là chức vụ quan
trọng thứ hai sau chức vụ Giáo Hoàng: đó là Đức Tổng Giám Mục Pietro
Parolin hiện là sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela và sẽ nhậm chức vào ngày
15/10/2013 thay thế Đức Hồng Y Tarcisio Bertone đáng kính. Một bất ngờ
mới xẩy ra nhất là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ không phong chức "đức ông"
cho các linh mục có công lớn hay có chức vụ quan trọng trong Giáo Hội nữa.
Bản tin của đài Vatican kết luận: "Khi được hỏi chúng ta có thể mong đợi
gì về sáu tháng tại nhiệm tiếp theo của Đức Phanxicô, Đức Ông Kennedy
trả lời "sẽ có nhiều sự tương tự, nhiều ngạc nhiên hơn" và Đức Ông
khuyên mọi người "hãy nhìn ngắm những điều ấy!"
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Monday, September 23, 2013
KHÔN NHÀ – DẠI CHỢ
Lm. Anmai, C.Ss.R.
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 25 Thường niên, Năm C
Am 8, 4-5; 1 Tm 2, 1-8; Lc 16, 1-13
Ta vẫn thường nghe người này người kia nói về lối hành xử của người khác bằng câu nói : "đồ khôn nhà dại chợ !" Câu nói ấy như trách móc cách hành xử của những người hết sức kỳ dị nghĩa là ở trong nhà, trong gia đình thì người ta cân nhắc, tính toán từng li từng tí còn ra ngoài đường thì dại vô cùng dại. Có khi dại đến độ ra ngoài đường ai hiếp đáp, ai làm gì cũng im thin thít và chịu thiệt.
Lẽ thường thì người ta không thích những người khôn nhà dại chợ như thế. Người ta vẫn muốn cho người ta ra ngoài đường thì phải khôn ngoan tính toán thiệt hơn còn trong nhà thì phải nhẹ nhàng, tế nhị và thậm chí khờ khạo chút cũng được vì là người nhà với nhau.
Các trang Thánh Kinh hôm nay cho ta thấy bài học về cách đối nhân xử thế hay gần hơn một chút đó là cách sống làm sao khôn ngoan tính toán ở ngoài đường và hơn thế nữa là sống làm sao để tính toán cho cái ngày mà người ta phải về hưu, ngày mà người ta không còn chút còn quyền nữa.
Trang sách ngôn sứ Amos hôm nay đã lên tiếng cảnh báo những kẻ hiếp đáp người nghèo trong xứ sở khi họ nghèo hèn hơn mình :
Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ
và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ.
Các ngươi thầm nghĩ:
"Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa;
bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?
Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm;
Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ.
Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần,
đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ;
cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán."
Đức Chúa đã lấy thánh danh
là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề:
Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.
Amos đã cảnh báo lối sống hà hiếp người nghèo, buôn gian bán lận để trục lợi về cho mình. Thế nhưng, những việc làm đen tối, những việc làm xấu xa của những người ấy không hề thoát khỏi ánh mắt của Đức Chúa và Đức Chúa cũng sẽ trả lại cho họ hành vi mà họ đã từng sống, họ đã từng hiếp đáp người nghèo.
Trong dòng chảy "nhân - quả" hết sức bình thường của con người đó là gieo làm sao gặt như vậy, trang Tin mừng hôm nay Thánh Luca thuật lại bài học thật hay cho mỗi người chúng ta.
Với dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Dụ ngôn này có thể được gợi lên từ một sự kiện nào đó trong đời thường. Thoạt đầu, dụ ngôn khiến chúng ta bỡ ngỡ vì nó mô tả một người quản gia, do cách quản lý lãng phí - "đã phung phá của cải nhà chủ" - nên bị ông chủ cho nghỉ việc. Lao động chân tay thì không nổi, ngửa tay ăn xin thì xấu hổ, anh ta đã khéo xoay xở, để tới đâu chăng nữa, vẫn bảo đảm được tương lai : "Mình biết phải làm gì rồi ", anh tự nhủ. Thế là không một chút chần chừ, nhân vật của chúng ta cho gọi "từng con nợ" của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may ngàn năm một thuở, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 phuy dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khoảng 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoả ng 6000 ký ). Từ nay, mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật: đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm "sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ ".
Chúa Giêsu mượn hình ảnh của anh chàng quản gia một bài học cho "con cái ánh sáng"
"Chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo !" chắc chắn không phải vì cái trò gian lận kia. Nhưng vì tính khôn léo và nhanh nhạy đáng noi gương bắt chước của anh ta trước một tính thế khó khăn để bảo đảm tương lai cho mình.
Mong sao "con cái ánh sáng", tức là những môn đệ của Chúa Giêsu, hãy học đòi nơi "con cái đời này", để có được sự khôn khéo và nhanh nhạy tương tự trong việc ưu tiên chọn lựa Nước Trời, và phục vụ Thiên Chúa và anh em hơn tất cả mọi sự !
Lên tiếng với đám đông hiếu kỳ và hoang mang, Chúa Giêsu tìm cách làm cho họ hiểu rằng sứ mạng Người lệnh nhận từ nơi Thiên Chúa đang đem lại cho con người một thời cơ trọng đại, phải khẩn trương có thái độ chọn lưạ phù hợp với lời kêu gọi của Người. Người ta phải quyết định ngay đừng để quá muộn: hạnh phúc đời dời của mỗi người tuỳ thuộc ở đây"
Như vậy, bài học dụ ngôn muốn dạy đã rõ ràng sáng sủa. Chúa Giêsu nói tiếp: "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu". Nói cách khác, hãy xử sự khôn khéo làm sao để tiền của vật chất mà chúng ta chỉ là kẻ quản lý - không trở thành một sức mạnh thống trị và làm nô lệ con người, nhưng trở thành phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng mối hiệp thông giữa con người với nhau.
Tóm lại, đây là một lời nhắn nhủ: các môn đệ phải biết cách sử dụng đồng tiền cho khôn khéo, theo viễn tượng của Nước Trời. Nếu người quản gia bất lương kia đã biết lợi dụng của cải trần thế để mua lấy bạn bè và phòng xa cho tương lai của mình trong cuộc đời này, thì người Kitô hữu càng phải biết chuẩn bị như thế nào cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau bằng cách chia sẻ mới người nghèo qua việc rộng tay làm phước, để sau này chính những người nghèo đó sẽ đón tiếp họ vào cõi phúc của Thiên Chúa... Xử sự khôn khéo chính là biết xem tiền bạc như phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Tiền là bạc, là gian dối... bơi vì nó dễ trở thành ngẫu tượng là so mới của cải chân thật là bất diệt trên Nước Trời, nó chỉ mang giá trị mong manh tạm bợ, đến ngày mỗi người chúng ta phải từ giã cuộc đời, xuôi tay bỏ lại tất cả khi ấy mới thấy rõ tiền của chẳng là gì cả Triều đại của đồng tiền rồi cũng phải chấm dứt.
Rồi, Chúa Giêsu kết luận bằng một câu châm ngôn theo kiểu triết lý khôn ngoan: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được!". Giữa Thiên Chúa và tiền của không thể có chuyện bắt cá hai tay được! Từ khi Thiên Chúa xuất hiện trên thế giới này người bị đặt trước một sự chọn lựa triệt để, qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một lối sống mới, Ngài chỉ cho chúng ta một cách sử dụng đồng tiền độc đáo: "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè... " và Người cắt nghĩa tại sao: "phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu". Vấn đề không chỉ đơn giản là một lời khuyên sống đạo đức. Vấn đề ở đây là phải biết cách sử dụng của cải trong tương quan vời cuộc sống vĩnh cửu. Gương người quản lý bất lương lén sửa lại các món nợ để tranh thủ thêm bạn hữu không nhằm khuyến khích một thái độ vụ lợi: chia sớt chút đỉnh tiền của để được vào thiên đàng. Qua chính điều Người nói, Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng "con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại". Sự khôn khéo mà Người muốn dạy chúng ta không phải là một thứ tính toán bần tiện, nhưng là lời mời gọi phải sáng suốt phải thực sự là con cái ánh sáng. Chúa Giêsu đề cập đến một thứ của cải đích thực "dành cho chúng ta ", đó là phụng sự Thiên Chúa: "không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ". Sự giàu có thật vượt xa khỏi con người, nó ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta mới là con cái ánh sáng. Chúng ta phải tỏ ra thật khôn khéo, tỉnh táo để nhận ra những giá trị đích thực và sử dụng tiền của sao cho phù hợp với những giá trị đó. Sống chia sẻ không chỉ là một cách ăn ở tốt, nó còn là chứng tá của đức tin.
Nếu thuộc về Thiên Chúa thật thì phải có một lối sống, cách hành xử đạo đức như Chúa dạy. Thánh Phaolô có lẽ đã cảm, đã nghiệm được vinh quang, quyền lực và vật chất trong cuộc đời này để rồi Ngài chọn lựa lối sống thuộc về Chúa. Thánh nhân đã không khư khư giữ cảm nghiệm của mình mà Ngài đã trao lại cho môn đệ Timôthê : "Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý".
Thánh Phaolô trước kia chưa biết Chúa nên sống khác nhưng sau khi biết Chúa thì Ngài đã sống khác. Ngài đã sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Thánh Phaolô đã nhận ra ai chính là chủ thật của mình để làm tôi như Chúa Giêsu mời gọi.
Thánh Phaolô đã chọn Chúa là chủ, là Chúa của đời mình thật.
Phần chúng ta, chúng ta hành xử theo cách lối nào tùy thuộc vào chọn lựa của mỗi người chúng ta.
Lm. Anmai, C.Ss.R.
(17 tháng 9-2010)
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 25 Thường niên, Năm C
Am 8, 4-5; 1 Tm 2, 1-8; Lc 16, 1-13
Ta vẫn thường nghe người này người kia nói về lối hành xử của người khác bằng câu nói : "đồ khôn nhà dại chợ !" Câu nói ấy như trách móc cách hành xử của những người hết sức kỳ dị nghĩa là ở trong nhà, trong gia đình thì người ta cân nhắc, tính toán từng li từng tí còn ra ngoài đường thì dại vô cùng dại. Có khi dại đến độ ra ngoài đường ai hiếp đáp, ai làm gì cũng im thin thít và chịu thiệt.
Lẽ thường thì người ta không thích những người khôn nhà dại chợ như thế. Người ta vẫn muốn cho người ta ra ngoài đường thì phải khôn ngoan tính toán thiệt hơn còn trong nhà thì phải nhẹ nhàng, tế nhị và thậm chí khờ khạo chút cũng được vì là người nhà với nhau.
Các trang Thánh Kinh hôm nay cho ta thấy bài học về cách đối nhân xử thế hay gần hơn một chút đó là cách sống làm sao khôn ngoan tính toán ở ngoài đường và hơn thế nữa là sống làm sao để tính toán cho cái ngày mà người ta phải về hưu, ngày mà người ta không còn chút còn quyền nữa.
Trang sách ngôn sứ Amos hôm nay đã lên tiếng cảnh báo những kẻ hiếp đáp người nghèo trong xứ sở khi họ nghèo hèn hơn mình :
Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ
và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ.
Các ngươi thầm nghĩ:
"Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa;
bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?
Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm;
Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ.
Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần,
đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ;
cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán."
Đức Chúa đã lấy thánh danh
là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề:
Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.
Amos đã cảnh báo lối sống hà hiếp người nghèo, buôn gian bán lận để trục lợi về cho mình. Thế nhưng, những việc làm đen tối, những việc làm xấu xa của những người ấy không hề thoát khỏi ánh mắt của Đức Chúa và Đức Chúa cũng sẽ trả lại cho họ hành vi mà họ đã từng sống, họ đã từng hiếp đáp người nghèo.
Trong dòng chảy "nhân - quả" hết sức bình thường của con người đó là gieo làm sao gặt như vậy, trang Tin mừng hôm nay Thánh Luca thuật lại bài học thật hay cho mỗi người chúng ta.
Với dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Dụ ngôn này có thể được gợi lên từ một sự kiện nào đó trong đời thường. Thoạt đầu, dụ ngôn khiến chúng ta bỡ ngỡ vì nó mô tả một người quản gia, do cách quản lý lãng phí - "đã phung phá của cải nhà chủ" - nên bị ông chủ cho nghỉ việc. Lao động chân tay thì không nổi, ngửa tay ăn xin thì xấu hổ, anh ta đã khéo xoay xở, để tới đâu chăng nữa, vẫn bảo đảm được tương lai : "Mình biết phải làm gì rồi ", anh tự nhủ. Thế là không một chút chần chừ, nhân vật của chúng ta cho gọi "từng con nợ" của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may ngàn năm một thuở, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 phuy dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khoảng 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoả ng 6000 ký ). Từ nay, mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật: đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm "sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ ".
Chúa Giêsu mượn hình ảnh của anh chàng quản gia một bài học cho "con cái ánh sáng"
"Chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo !" chắc chắn không phải vì cái trò gian lận kia. Nhưng vì tính khôn léo và nhanh nhạy đáng noi gương bắt chước của anh ta trước một tính thế khó khăn để bảo đảm tương lai cho mình.
Mong sao "con cái ánh sáng", tức là những môn đệ của Chúa Giêsu, hãy học đòi nơi "con cái đời này", để có được sự khôn khéo và nhanh nhạy tương tự trong việc ưu tiên chọn lựa Nước Trời, và phục vụ Thiên Chúa và anh em hơn tất cả mọi sự !
Lên tiếng với đám đông hiếu kỳ và hoang mang, Chúa Giêsu tìm cách làm cho họ hiểu rằng sứ mạng Người lệnh nhận từ nơi Thiên Chúa đang đem lại cho con người một thời cơ trọng đại, phải khẩn trương có thái độ chọn lưạ phù hợp với lời kêu gọi của Người. Người ta phải quyết định ngay đừng để quá muộn: hạnh phúc đời dời của mỗi người tuỳ thuộc ở đây"
Như vậy, bài học dụ ngôn muốn dạy đã rõ ràng sáng sủa. Chúa Giêsu nói tiếp: "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu". Nói cách khác, hãy xử sự khôn khéo làm sao để tiền của vật chất mà chúng ta chỉ là kẻ quản lý - không trở thành một sức mạnh thống trị và làm nô lệ con người, nhưng trở thành phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng mối hiệp thông giữa con người với nhau.
Tóm lại, đây là một lời nhắn nhủ: các môn đệ phải biết cách sử dụng đồng tiền cho khôn khéo, theo viễn tượng của Nước Trời. Nếu người quản gia bất lương kia đã biết lợi dụng của cải trần thế để mua lấy bạn bè và phòng xa cho tương lai của mình trong cuộc đời này, thì người Kitô hữu càng phải biết chuẩn bị như thế nào cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau bằng cách chia sẻ mới người nghèo qua việc rộng tay làm phước, để sau này chính những người nghèo đó sẽ đón tiếp họ vào cõi phúc của Thiên Chúa... Xử sự khôn khéo chính là biết xem tiền bạc như phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Tiền là bạc, là gian dối... bơi vì nó dễ trở thành ngẫu tượng là so mới của cải chân thật là bất diệt trên Nước Trời, nó chỉ mang giá trị mong manh tạm bợ, đến ngày mỗi người chúng ta phải từ giã cuộc đời, xuôi tay bỏ lại tất cả khi ấy mới thấy rõ tiền của chẳng là gì cả Triều đại của đồng tiền rồi cũng phải chấm dứt.
Rồi, Chúa Giêsu kết luận bằng một câu châm ngôn theo kiểu triết lý khôn ngoan: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được!". Giữa Thiên Chúa và tiền của không thể có chuyện bắt cá hai tay được! Từ khi Thiên Chúa xuất hiện trên thế giới này người bị đặt trước một sự chọn lựa triệt để, qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một lối sống mới, Ngài chỉ cho chúng ta một cách sử dụng đồng tiền độc đáo: "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè... " và Người cắt nghĩa tại sao: "phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu". Vấn đề không chỉ đơn giản là một lời khuyên sống đạo đức. Vấn đề ở đây là phải biết cách sử dụng của cải trong tương quan vời cuộc sống vĩnh cửu. Gương người quản lý bất lương lén sửa lại các món nợ để tranh thủ thêm bạn hữu không nhằm khuyến khích một thái độ vụ lợi: chia sớt chút đỉnh tiền của để được vào thiên đàng. Qua chính điều Người nói, Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng "con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại". Sự khôn khéo mà Người muốn dạy chúng ta không phải là một thứ tính toán bần tiện, nhưng là lời mời gọi phải sáng suốt phải thực sự là con cái ánh sáng. Chúa Giêsu đề cập đến một thứ của cải đích thực "dành cho chúng ta ", đó là phụng sự Thiên Chúa: "không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ". Sự giàu có thật vượt xa khỏi con người, nó ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta mới là con cái ánh sáng. Chúng ta phải tỏ ra thật khôn khéo, tỉnh táo để nhận ra những giá trị đích thực và sử dụng tiền của sao cho phù hợp với những giá trị đó. Sống chia sẻ không chỉ là một cách ăn ở tốt, nó còn là chứng tá của đức tin.
Nếu thuộc về Thiên Chúa thật thì phải có một lối sống, cách hành xử đạo đức như Chúa dạy. Thánh Phaolô có lẽ đã cảm, đã nghiệm được vinh quang, quyền lực và vật chất trong cuộc đời này để rồi Ngài chọn lựa lối sống thuộc về Chúa. Thánh nhân đã không khư khư giữ cảm nghiệm của mình mà Ngài đã trao lại cho môn đệ Timôthê : "Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý".
Thánh Phaolô trước kia chưa biết Chúa nên sống khác nhưng sau khi biết Chúa thì Ngài đã sống khác. Ngài đã sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Thánh Phaolô đã nhận ra ai chính là chủ thật của mình để làm tôi như Chúa Giêsu mời gọi.
Thánh Phaolô đã chọn Chúa là chủ, là Chúa của đời mình thật.
Phần chúng ta, chúng ta hành xử theo cách lối nào tùy thuộc vào chọn lựa của mỗi người chúng ta.
Lm. Anmai, C.Ss.R.
(17 tháng 9-2010)
Sunday, September 22, 2013
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH
Chúa Nhật Thứ 25 Thường Niên
Lc 16, 1-13
1 Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng : "Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông.
2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo : 'Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa !'
3 Người quản gia liền nghĩ bụng : 'Mình sẽ làm gì đây ? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !'
5 "Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất : 'Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?'
6 Người ấy đáp : 'Một trăm thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo : 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.' 7 Rồi anh ta hỏi người khác : 'Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?' Người ấy đáp : 'Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo : 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.'
8 "Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
9 "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.
10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.
11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ?
12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?
13 "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."
Twenty-fifth Sunday in Ordinary Time
Lk 16:1-13
1 Then he also said to his disciples, "A rich man had a steward who was reported to him for squandering his property.
2 He summoned him and said, 'What is this I hear about you? Prepare a full account of your stewardship, because you can no longer be my steward.'
3 The steward said to himself, 'What shall I do, now that my master is taking the position of steward away from me? I am not strong enough to dig and I am ashamed to beg.
4 I know what I shall do so that, when I am removed from the stewardship, they may welcome me into their homes.'
5 He called in his master's debtors one by one. To the first he said, 'How much do you owe my master?' 6 He replied, 'One hundred measures of olive oil.' He said to him, 'Here is your promissory note. Sit down and quickly write one for fifty.'
7 Then to another he said, 'And you, how much do you owe?' He replied, 'One hundred kors of wheat.' He said to him, 'Here is your promissory note; write one for eighty.'
8 And the master commended that dishonest steward for acting prudently. "For the children of this world are more prudent in dealing with their own generation than are the children of light.
9 I tell you, make friends for yourselves with dishonest wealth, so that when it fails, you will be welcomed into eternal dwellings.
10 The person who is trustworthy in very small matters is also trustworthy in great ones; and the person who is dishonest in very small matters is also dishonest in great ones.
11 If, therefore, you are not trustworthy with dishonest wealth, who will trust you with true wealth?
12 If you are not trustworthy with what belongs to another, who will give you what is yours?
13 No servant can serve two masters. He will either hate one and love the other, or be devoted to one and despise the other. You cannot serve God and mammon."
Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: "Ngài có muốn mua gì không?". Mạnh Thường Quân trả lời: "Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua". Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: "Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả". Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: "Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài". Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: "Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước".
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Lc 16, 1-13
1 Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng : "Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông.
2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo : 'Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa !'
3 Người quản gia liền nghĩ bụng : 'Mình sẽ làm gì đây ? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !'
5 "Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất : 'Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?'
6 Người ấy đáp : 'Một trăm thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo : 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.' 7 Rồi anh ta hỏi người khác : 'Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?' Người ấy đáp : 'Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo : 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.'
8 "Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
9 "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.
10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.
11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ?
12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?
13 "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."
Twenty-fifth Sunday in Ordinary Time
Lk 16:1-13
1 Then he also said to his disciples, "A rich man had a steward who was reported to him for squandering his property.
2 He summoned him and said, 'What is this I hear about you? Prepare a full account of your stewardship, because you can no longer be my steward.'
3 The steward said to himself, 'What shall I do, now that my master is taking the position of steward away from me? I am not strong enough to dig and I am ashamed to beg.
4 I know what I shall do so that, when I am removed from the stewardship, they may welcome me into their homes.'
5 He called in his master's debtors one by one. To the first he said, 'How much do you owe my master?' 6 He replied, 'One hundred measures of olive oil.' He said to him, 'Here is your promissory note. Sit down and quickly write one for fifty.'
7 Then to another he said, 'And you, how much do you owe?' He replied, 'One hundred kors of wheat.' He said to him, 'Here is your promissory note; write one for eighty.'
8 And the master commended that dishonest steward for acting prudently. "For the children of this world are more prudent in dealing with their own generation than are the children of light.
9 I tell you, make friends for yourselves with dishonest wealth, so that when it fails, you will be welcomed into eternal dwellings.
10 The person who is trustworthy in very small matters is also trustworthy in great ones; and the person who is dishonest in very small matters is also dishonest in great ones.
11 If, therefore, you are not trustworthy with dishonest wealth, who will trust you with true wealth?
12 If you are not trustworthy with what belongs to another, who will give you what is yours?
13 No servant can serve two masters. He will either hate one and love the other, or be devoted to one and despise the other. You cannot serve God and mammon."
Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: "Ngài có muốn mua gì không?". Mạnh Thường Quân trả lời: "Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua". Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: "Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả". Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: "Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài". Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: "Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước".
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Saturday, September 21, 2013
NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔNG NÊN GIỮ ĐẠO…
Trần Duy Nhiên
Tựa đề «người công giáo không nên giữ đạo» hẳn làm cho nhiều độc giả giật mình. Một câu như thế xuất hiện trên bất cứ một tờ báo nào thì còn có thể chấp nhận được, chứ trên một tờ báo Công giáo thì quả là một lời «phản động». Đúng là một lời phản động, theo nghĩa là đi ngược lại với nếp nghĩ của rất nhiều người. Thế thì cần phải minh xác về vấn đề từ ngữ. Khi nói về đời sống đức tin của mình, người công giáo Việt Nam có bốn cách nói: theo đạo, giữ đạo, sống đạo, và ít khi gặp hơn, «đi đạo».
Theo đạo.
Anh chị «theo đạo nào» ? Tôi «theo đạo» công giáo. Đối với nhiều người công giáo, cụm từ «theo đạo» có nghĩa là mình đã chịu phép rửa. Vì đạo công giáo được chúng ta xem là đạo mặc khải, nghĩa là do chính Thiên Chúa nói cho chúng ta biết, nên đó là đạo trên hết các đạo, nếu không phải là Đạo duy nhất. Và cũng vì thế mà khi nghe một người không công giáo đón nhận đức tin, ta bảo rằng người ấy «trở lại Đạo». Thực ra, trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ «đạo» rộng nghĩa hơn nhiều, và người đầu tiên nói đến Đạo, không phải là Chúa Kitô, mà là Lão Tử, «giáo chủ» của Đạo giáo. Chúng ta nói đến nhiều đạo khác nữa: đạo Phật, đạo Lão, Đạo Khổng, đạo ông bà, ấy là chưa nói đến đạo làm người, đạo làm vợ làm chồng, đạo làm con… Nếu chúng ta gọi đời sống đức tin của mình là «theo đạo» thì hẳn không sai, nhưng rất bó hẹp: Đón nhận đức tin công giáo không chỉ nhằm cho ta có một cái đạo hầu sống cho hợp với luân lý làm người. Do đó, người công giáo theo đạo mà thôi thì chưa đủ.
Giữ đạo.
Khi đã có «đạo công giáo» rồi, thì người tín hữu «giữ đạo». Cụm từ giữ đạo cũng có nhiều cách hiểu. Cách thứ nhất là «giữ» luật đạo. Nói một cách nôm na là giữ «mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh cùng các điều khác Hội Thánh dạy». Cụ thể là đi xem lễ, ít nhất là mỗi tuần một lần; xưng tội mỗi năm ít là một lần; chịu Mình Thánh Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh, vân vân. Ngoài ra, đối với những người «đàng hoàng» hơn thì đọc kinh sáng tối, và nếu «ngon» hơn nữa thì hằng ngày đọc kinh phụng vụ và một đoạn phúc âm. Ngoài ra, «giữ» đạo còn một cách hiểu thứ hai, ấy là «giữ» làm sao cho Đạo công giáo (và người công giáo) không bị ai chạm đến. Giữ đạo theo kiểu các lãnh đạo quốc gia nói đến việc «giữ nước» hay «bảo vệ tổ quốc». Người công giáo «giữ đạo» theo nghĩa là «bảo vệ» tôn giáo mình, bảo vệ người công giáo, bảo vệ học thuyết công giáo, bảo vệ nhà thờ và đất đai thuộc sở hữu Giáo Hội công giáo. Tóm lại, giữ đạo theo cách xem tất cả những gì và những ai không công giáo là «kẻ thù» hay «lạc đạo» mà mình phải «dụ địch» theo tinh thần bác ái để cho họ «trở lại». Và nếu không thể được, thì phê phán họ, chỉ trích họ, đồng thời củng cố lực lượng của «phe ta» để khỏi bị «kẻ thù» lấn lướt. Giữ đạo như là giữ một thành trì, tay cầm súng, với tinh thần căng thẳng của một «chiến sĩ» luôn xem người lạ là «kẻ thù», và sẵn sàng nổ súng.
Sống đạo.
Vì chữ «giữ đạo» có một nghĩa như trên, nghĩa là khá tiêu cực, nên những thập niên vừa qua, người công giáo dùng chữ «sống đạo» thay cho chữ «giữ đạo». Sống đạo là đối chiếu đời mình với lời Chúa, làm thế nào để cho toàn bộ cuộc sống phù hợp với Phúc Âm. Đấy là lý tưởng. Nhưng trong thực tế, «sống đạo» cũng có khuynh hướng trở thành «giữ đạo» trong cuộc sống, nghĩa là làm «các việc đạo đức» như xem lễ, đọc kinh, xưng tội rồi chấm hết. Cao lắm là làm thêm vài việc bác ái và tông đồ. Tóm lại, đối với một số giáo dân chúng ta, sống đạo nhiều khi có nghĩa là dành ra một số thì giờ (tối đa là 1 phần 10, và bình thường là 1 phần trăm thời gian trong tuần) để làm các việc đạo đức ấy, phần còn lại là đời sống cơm áo gạo tiền, nghĩa là chẳng ăn nhập gì đến đạo cả. Nếu sống đạo như thế thì vẫn có cái gì đó chưa ổn.
Đi đạo.
Có lẽ cụm từ súc tích nhất, mà ông cha ta đã dùng từ lâu nhưng hiện nay ít khi người công giáo dùng, ấy là «đi đạo». Chúa Kitô là Đường, là Đạo, và trọn cuộc đời của người công giáo là phải đi trên Con Đường đó. Điều này đòi hỏi Kitô hữu phải ở trên Đường, ở trong Chúa Kitô đã đi; phải «bước đi trong ánh sáng như chính Người ở trong Ánh Sáng… Ai bảo rằng mình ở trong Người, thì phải bước đi như chính Người đã bước đi» (1Ga 1, 7). Chúa Giêsu đã sống cuộc sống «Đạo làm Con» của mình bằng cách kết hiệp với Cha trong mọi nơi mọi lúc: «Tôi và Chúa Cha là một» (Ga 10, 30). Ngài từng lên nơi thanh vắng mà cầu nguyện, thậm chí có lần thức trắng đêm lên núi mà cầu nguyện (xem Lc 6, 12), Ngài cũng «xem lễ» tại hội đường vào ngày hưu lễ (xem Lc 4, 16), Ngài cũng rao giảng rất nhiều lần về Nước Trời và con đường về Vương Quốc, nhưng tuyệt đại đa số thời gian của Ngài là «bước đi trong ánh sáng» đến với tha nhân, nhất là những người bất hạnh: người đui, người què, người bệnh, người tội lỗi; và đường đi tuyệt đỉnh của Ngài là con đường thánh giá để chết đi không có một mảnh áo che thân, trong tinh thần hoàn toàn tự hủy. Rốt cục, Chúa Giêsu không «giữ đạo» mà cũng chẳng «sống đạo» mà Ngài «Đi Đạo». Hơn thế nữa, Ngài chính là Đạo, nghĩa là Con Đường. Đi Đạo là như thế đó. Đi Đạo là trở nên «trọn lành như Cha anh em là Đấng trọn lành» (Mt 5, 48). Đi Đạo là «trở nên một» với Chúa Kitô 24 giờ một ngày, và từ đó «truyền đạo» của Ngài, nghĩa là truyền cho mọi người chung quanh cảm nhận được thế nào là Tình Yêu, và Tình Yêu chính là Thiên Chúa.
Vì thế, người công giáo không nên giữ đạo. Hay nói cho đúng hơn, người công giáo không được phép chỉ «giữ đạo» mà thôi – dù với cái nghĩa tích cực nhất là giữ các lề luật Giáo Hội – mà phải Đi Đạo, nghĩa là đi theo con đường tự hủy của Chúa Kitô để nên thánh như Ngài là Đấng Thánh. Và nếu chúng ta tiếp tục bảo rằng mình theo đạo, giữ đạo, sống đạo, thì tự thâm sâu ta cũng phải hiểu những hạn từ ấy theo nghĩa là «đi đạo».
http://www.maranatha-vietnam.net/doc/M07/nguoi_CG_7.htm
Tựa đề «người công giáo không nên giữ đạo» hẳn làm cho nhiều độc giả giật mình. Một câu như thế xuất hiện trên bất cứ một tờ báo nào thì còn có thể chấp nhận được, chứ trên một tờ báo Công giáo thì quả là một lời «phản động». Đúng là một lời phản động, theo nghĩa là đi ngược lại với nếp nghĩ của rất nhiều người. Thế thì cần phải minh xác về vấn đề từ ngữ. Khi nói về đời sống đức tin của mình, người công giáo Việt Nam có bốn cách nói: theo đạo, giữ đạo, sống đạo, và ít khi gặp hơn, «đi đạo».
Theo đạo.
Anh chị «theo đạo nào» ? Tôi «theo đạo» công giáo. Đối với nhiều người công giáo, cụm từ «theo đạo» có nghĩa là mình đã chịu phép rửa. Vì đạo công giáo được chúng ta xem là đạo mặc khải, nghĩa là do chính Thiên Chúa nói cho chúng ta biết, nên đó là đạo trên hết các đạo, nếu không phải là Đạo duy nhất. Và cũng vì thế mà khi nghe một người không công giáo đón nhận đức tin, ta bảo rằng người ấy «trở lại Đạo». Thực ra, trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ «đạo» rộng nghĩa hơn nhiều, và người đầu tiên nói đến Đạo, không phải là Chúa Kitô, mà là Lão Tử, «giáo chủ» của Đạo giáo. Chúng ta nói đến nhiều đạo khác nữa: đạo Phật, đạo Lão, Đạo Khổng, đạo ông bà, ấy là chưa nói đến đạo làm người, đạo làm vợ làm chồng, đạo làm con… Nếu chúng ta gọi đời sống đức tin của mình là «theo đạo» thì hẳn không sai, nhưng rất bó hẹp: Đón nhận đức tin công giáo không chỉ nhằm cho ta có một cái đạo hầu sống cho hợp với luân lý làm người. Do đó, người công giáo theo đạo mà thôi thì chưa đủ.
Giữ đạo.
Khi đã có «đạo công giáo» rồi, thì người tín hữu «giữ đạo». Cụm từ giữ đạo cũng có nhiều cách hiểu. Cách thứ nhất là «giữ» luật đạo. Nói một cách nôm na là giữ «mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh cùng các điều khác Hội Thánh dạy». Cụ thể là đi xem lễ, ít nhất là mỗi tuần một lần; xưng tội mỗi năm ít là một lần; chịu Mình Thánh Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh, vân vân. Ngoài ra, đối với những người «đàng hoàng» hơn thì đọc kinh sáng tối, và nếu «ngon» hơn nữa thì hằng ngày đọc kinh phụng vụ và một đoạn phúc âm. Ngoài ra, «giữ» đạo còn một cách hiểu thứ hai, ấy là «giữ» làm sao cho Đạo công giáo (và người công giáo) không bị ai chạm đến. Giữ đạo theo kiểu các lãnh đạo quốc gia nói đến việc «giữ nước» hay «bảo vệ tổ quốc». Người công giáo «giữ đạo» theo nghĩa là «bảo vệ» tôn giáo mình, bảo vệ người công giáo, bảo vệ học thuyết công giáo, bảo vệ nhà thờ và đất đai thuộc sở hữu Giáo Hội công giáo. Tóm lại, giữ đạo theo cách xem tất cả những gì và những ai không công giáo là «kẻ thù» hay «lạc đạo» mà mình phải «dụ địch» theo tinh thần bác ái để cho họ «trở lại». Và nếu không thể được, thì phê phán họ, chỉ trích họ, đồng thời củng cố lực lượng của «phe ta» để khỏi bị «kẻ thù» lấn lướt. Giữ đạo như là giữ một thành trì, tay cầm súng, với tinh thần căng thẳng của một «chiến sĩ» luôn xem người lạ là «kẻ thù», và sẵn sàng nổ súng.
Sống đạo.
Vì chữ «giữ đạo» có một nghĩa như trên, nghĩa là khá tiêu cực, nên những thập niên vừa qua, người công giáo dùng chữ «sống đạo» thay cho chữ «giữ đạo». Sống đạo là đối chiếu đời mình với lời Chúa, làm thế nào để cho toàn bộ cuộc sống phù hợp với Phúc Âm. Đấy là lý tưởng. Nhưng trong thực tế, «sống đạo» cũng có khuynh hướng trở thành «giữ đạo» trong cuộc sống, nghĩa là làm «các việc đạo đức» như xem lễ, đọc kinh, xưng tội rồi chấm hết. Cao lắm là làm thêm vài việc bác ái và tông đồ. Tóm lại, đối với một số giáo dân chúng ta, sống đạo nhiều khi có nghĩa là dành ra một số thì giờ (tối đa là 1 phần 10, và bình thường là 1 phần trăm thời gian trong tuần) để làm các việc đạo đức ấy, phần còn lại là đời sống cơm áo gạo tiền, nghĩa là chẳng ăn nhập gì đến đạo cả. Nếu sống đạo như thế thì vẫn có cái gì đó chưa ổn.
Đi đạo.
Có lẽ cụm từ súc tích nhất, mà ông cha ta đã dùng từ lâu nhưng hiện nay ít khi người công giáo dùng, ấy là «đi đạo». Chúa Kitô là Đường, là Đạo, và trọn cuộc đời của người công giáo là phải đi trên Con Đường đó. Điều này đòi hỏi Kitô hữu phải ở trên Đường, ở trong Chúa Kitô đã đi; phải «bước đi trong ánh sáng như chính Người ở trong Ánh Sáng… Ai bảo rằng mình ở trong Người, thì phải bước đi như chính Người đã bước đi» (1Ga 1, 7). Chúa Giêsu đã sống cuộc sống «Đạo làm Con» của mình bằng cách kết hiệp với Cha trong mọi nơi mọi lúc: «Tôi và Chúa Cha là một» (Ga 10, 30). Ngài từng lên nơi thanh vắng mà cầu nguyện, thậm chí có lần thức trắng đêm lên núi mà cầu nguyện (xem Lc 6, 12), Ngài cũng «xem lễ» tại hội đường vào ngày hưu lễ (xem Lc 4, 16), Ngài cũng rao giảng rất nhiều lần về Nước Trời và con đường về Vương Quốc, nhưng tuyệt đại đa số thời gian của Ngài là «bước đi trong ánh sáng» đến với tha nhân, nhất là những người bất hạnh: người đui, người què, người bệnh, người tội lỗi; và đường đi tuyệt đỉnh của Ngài là con đường thánh giá để chết đi không có một mảnh áo che thân, trong tinh thần hoàn toàn tự hủy. Rốt cục, Chúa Giêsu không «giữ đạo» mà cũng chẳng «sống đạo» mà Ngài «Đi Đạo». Hơn thế nữa, Ngài chính là Đạo, nghĩa là Con Đường. Đi Đạo là như thế đó. Đi Đạo là trở nên «trọn lành như Cha anh em là Đấng trọn lành» (Mt 5, 48). Đi Đạo là «trở nên một» với Chúa Kitô 24 giờ một ngày, và từ đó «truyền đạo» của Ngài, nghĩa là truyền cho mọi người chung quanh cảm nhận được thế nào là Tình Yêu, và Tình Yêu chính là Thiên Chúa.
Vì thế, người công giáo không nên giữ đạo. Hay nói cho đúng hơn, người công giáo không được phép chỉ «giữ đạo» mà thôi – dù với cái nghĩa tích cực nhất là giữ các lề luật Giáo Hội – mà phải Đi Đạo, nghĩa là đi theo con đường tự hủy của Chúa Kitô để nên thánh như Ngài là Đấng Thánh. Và nếu chúng ta tiếp tục bảo rằng mình theo đạo, giữ đạo, sống đạo, thì tự thâm sâu ta cũng phải hiểu những hạn từ ấy theo nghĩa là «đi đạo».
http://www.maranatha-vietnam.net/doc/M07/nguoi_CG_7.htm
Friday, September 20, 2013
INTERVIEW WITH POPE FRANCIS IN JESUIT MAGAZINES
From
http://visnews-en.blogspot.com/2013/09/interview-with-pope-francis-in-jesuit.html:
Vatican City, 20 September 2013 (VIS) – Pope Francis has granted a
lengthy interview, published in the Italian Jesuit magazine "La Civilta
Cattolica" and simultaneously in another sixteen magazines linked to the
Society of Jesus throughout the world. The interview was the result of
three private meetings and more than six hours of discussion between the
Pope and the editor of "La Civilta Cattolica", Fr. Antonio Spadaro,
during the month of August at the Santa Marta guesthouse.
In the interview, more than thirty pages long, the Pope talks frankly
about himself, his artistic and literary tastes (Dostoyevski and
Holderlin, Borges and Cervantes, Caravaggio and Chagall, but also
Fellini's "La Strada", Rossellini, "Babette's Feast", Mozart, and
Wagner's "Tetralogy"), and his experience in the Society of Jesus and as
archbishop of Buenos Aires. He defines himself as "a sinner. This is the
most accurate definition. It is not a figure of speech, a literary
genre. I am a sinner."
Referring to his period as Provincial in the Society of Jesus, he says,
"My authoritarian and quick manner of making decisions led me to have
serious problems and to be accused of being ultraconservative". However,
as archbishop this experience helped him to understand the importance of
listening to the viewpoints of others. "I believe that consultation is
very important. The consistories, the synods are, for example, important
places to make real and active this consultation. We must, however, give
them a less rigid form".
He also talks about how his Jesuit training, and the process of
discernment in particular, have enabled him to better face his ministry.
"For example, many think that changes and reforms can take place in a
short time. I believe that we always need time to lay the foundations
for real, effective change. … The wisdom of discernment redeems the
necessary ambiguity of life and helps us find the most appropriate
means, which do not always coincide with what looks great and strong."
For the Pope, the Church nowadays is most in need of "the ability to
heal wounds and to warm the hearts of the faithful; it needs nearness,
proximity. I see the church as a field hospital after battle. It is
useless to ask a seriously injured person if he has high cholesterol and
about the level of his blood sugars! You have to heal his wounds. Then
we can talk about everything else. Heal the wounds, heal the wounds. ...
And you have to start from the ground up. The church sometimes has
locked itself up in small things, in small-minded rules. The most
important thing is the first proclamation: Jesus Christ has saved you! …
Instead of being just a church that welcomes and receives by keeping the
doors open, let us try also to be a church that finds new roads, that is
able to step outside itself and go to those who do not attend Mass, to
those who have quit or are indifferent".
With reference to complex questions such as homosexuality or the
situation of divorced and remarried Catholics, he insists on the need to
"always consider the person. Here we enter into the mystery of the human
being. In life, God accompanies persons, and we must accompany them,
starting from their situation. It is necessary to accompany them with
mercy".
The Pope added that "The dogmatic and moral teachings of the church are
not all equivalent" and "The church's pastoral ministry cannot be
obsessed with the transmission of a disjointed multitude of doctrines to
be imposed insistently. … We have to find a new balance. … The proposal
of the Gospel must be more simple, profound, radiant. It is from this
proposition that the moral consequences then flow".
Reflecting on the role of women in the Church, he reiterated that "the
feminine genius is needed wherever we make important decisions. The
challenge today is this: to think about the specific place of women also
in those places where the authority of the church is exercised for
various areas of the church".
Another theme considered during the interview was the importance of the
Vatican Council II as "a re-reading of the Gospel in light of
contemporary culture," says the Pope. "Vatican II produced a renewal
movement that simply comes from the same Gospel. Its fruits are
enormous. Just recall the liturgy. The work of liturgical reform has
been a service to the people as a re-reading of the Gospel from a
concrete historical situation. Yes, there are hermeneutics of continuity
and discontinuity, but one thing is clear: the dynamic of reading the
Gospel, actualising its message for today – which was typical of Vatican
II – is absolutely irreversible".
In the final passages of the interview, Francis spoke of the "temptation
to seek God in the past or in a possible future", and remarked that "God
is certainly in the past because we can see the footprints. And God is
also in the future as a promise. But the 'concrete' God, so to speak, is
today. For this reason, complaining never helps us find God. The
complaints of today about how 'barbaric' the world is – these complaints
sometimes end up giving birth within the Church to desires to establish
order in the sense of pure conservation, as a defence. No: God is to be
encountered in the world of today".
The full text of the interview can be found the online editions of
American Magazine ( www.americanmagazine.org) and the UK-based Thinking
Faith ( www.thinkingfaith.org).
http://visnews-en.blogspot.com/2013/09/interview-with-pope-francis-in-jesuit.html:
Vatican City, 20 September 2013 (VIS) – Pope Francis has granted a
lengthy interview, published in the Italian Jesuit magazine "La Civilta
Cattolica" and simultaneously in another sixteen magazines linked to the
Society of Jesus throughout the world. The interview was the result of
three private meetings and more than six hours of discussion between the
Pope and the editor of "La Civilta Cattolica", Fr. Antonio Spadaro,
during the month of August at the Santa Marta guesthouse.
In the interview, more than thirty pages long, the Pope talks frankly
about himself, his artistic and literary tastes (Dostoyevski and
Holderlin, Borges and Cervantes, Caravaggio and Chagall, but also
Fellini's "La Strada", Rossellini, "Babette's Feast", Mozart, and
Wagner's "Tetralogy"), and his experience in the Society of Jesus and as
archbishop of Buenos Aires. He defines himself as "a sinner. This is the
most accurate definition. It is not a figure of speech, a literary
genre. I am a sinner."
Referring to his period as Provincial in the Society of Jesus, he says,
"My authoritarian and quick manner of making decisions led me to have
serious problems and to be accused of being ultraconservative". However,
as archbishop this experience helped him to understand the importance of
listening to the viewpoints of others. "I believe that consultation is
very important. The consistories, the synods are, for example, important
places to make real and active this consultation. We must, however, give
them a less rigid form".
He also talks about how his Jesuit training, and the process of
discernment in particular, have enabled him to better face his ministry.
"For example, many think that changes and reforms can take place in a
short time. I believe that we always need time to lay the foundations
for real, effective change. … The wisdom of discernment redeems the
necessary ambiguity of life and helps us find the most appropriate
means, which do not always coincide with what looks great and strong."
For the Pope, the Church nowadays is most in need of "the ability to
heal wounds and to warm the hearts of the faithful; it needs nearness,
proximity. I see the church as a field hospital after battle. It is
useless to ask a seriously injured person if he has high cholesterol and
about the level of his blood sugars! You have to heal his wounds. Then
we can talk about everything else. Heal the wounds, heal the wounds. ...
And you have to start from the ground up. The church sometimes has
locked itself up in small things, in small-minded rules. The most
important thing is the first proclamation: Jesus Christ has saved you! …
Instead of being just a church that welcomes and receives by keeping the
doors open, let us try also to be a church that finds new roads, that is
able to step outside itself and go to those who do not attend Mass, to
those who have quit or are indifferent".
With reference to complex questions such as homosexuality or the
situation of divorced and remarried Catholics, he insists on the need to
"always consider the person. Here we enter into the mystery of the human
being. In life, God accompanies persons, and we must accompany them,
starting from their situation. It is necessary to accompany them with
mercy".
The Pope added that "The dogmatic and moral teachings of the church are
not all equivalent" and "The church's pastoral ministry cannot be
obsessed with the transmission of a disjointed multitude of doctrines to
be imposed insistently. … We have to find a new balance. … The proposal
of the Gospel must be more simple, profound, radiant. It is from this
proposition that the moral consequences then flow".
Reflecting on the role of women in the Church, he reiterated that "the
feminine genius is needed wherever we make important decisions. The
challenge today is this: to think about the specific place of women also
in those places where the authority of the church is exercised for
various areas of the church".
Another theme considered during the interview was the importance of the
Vatican Council II as "a re-reading of the Gospel in light of
contemporary culture," says the Pope. "Vatican II produced a renewal
movement that simply comes from the same Gospel. Its fruits are
enormous. Just recall the liturgy. The work of liturgical reform has
been a service to the people as a re-reading of the Gospel from a
concrete historical situation. Yes, there are hermeneutics of continuity
and discontinuity, but one thing is clear: the dynamic of reading the
Gospel, actualising its message for today – which was typical of Vatican
II – is absolutely irreversible".
In the final passages of the interview, Francis spoke of the "temptation
to seek God in the past or in a possible future", and remarked that "God
is certainly in the past because we can see the footprints. And God is
also in the future as a promise. But the 'concrete' God, so to speak, is
today. For this reason, complaining never helps us find God. The
complaints of today about how 'barbaric' the world is – these complaints
sometimes end up giving birth within the Church to desires to establish
order in the sense of pure conservation, as a defence. No: God is to be
encountered in the world of today".
The full text of the interview can be found the online editions of
American Magazine ( www.americanmagazine.org) and the UK-based Thinking
Faith ( www.thinkingfaith.org).
Thursday, September 19, 2013
Đau thương át cả niềm vui
VRNs (09.09.2013) – Ephata – Tôi trở về Sàigòn trong trạng thái mệt mỏi
và âu lo, một tuần lễ cho hành trình "xuyên Việt" với nhiều cảm xúc đối
nghịch, những bâng khuâng muộn phiền, những trăn trở dằn vặt… Tất cả đã
không cho tôi một giấc ngủ sâu thư giãn…
Tôi rời Sàigòn đến Vinh tham dự lễ thụ phong Giám Mục của Đức Cha Phụ Tá
Giáo phận Vinh. Giáo Dân Vinh khoảng 500.000 người, quy tụ phần lớn ở
tỉnh Nghệ An, một phần còn lại ở hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Dân
Vinh xưa nay vẫn "máu lửa", cứ nhìn những trận bóng đá có câu lạc bộ
Sông Lam Nghệ An tham dự thì biết, vàng rực cả một sân bóng, dù trận cầu
đá ở bất cứ đâu, xa đến mấy thì các cổ đông viên vẫn tìm đến, ủng hộ hết
mình.
Tòa Giám Mục Xã Đoài ngày 4 tháng 9 hôm ấy cũng vậy, một ngày trước đó,
lớp lớp người đã ùn ùn kéo về, Ban Trật Tự đã phải làm việc cật lực,
đường dẫn vào Tòa Giám Mục vừa trải đá đã được tưới nước liên tục để
tiếp đón trên dưới 200.000 người về dự. Lễ xong, thoát ra khỏi khu vực
hành lễ quả là một kỳ tích. Thánh Lễ kéo dài gần 3 tiếng đồng hồ hết sức
chu đáo và trang trọng cả hình thức lẫn nội dung.
Nhưng ngay sau một niềm vui thánh thiện của Giáo Phận, lúc 14g00 cùng
ngày, trên các mạng xã hội đã nhanh chóng loan tin tức và hình ảnh về
cuộc tấn công vào Giáo Dân tại Mỹ Yên, Nghi Phương, Nghệ An. Chiều hôm
ấy chúng tôi như ngồi trên lửa, nỗi lo lắng muộn phiền bàng hoàng, lấn
át cả niềm vui, lòng dạ đau như cắt khi nhìn thấy cảnh máu chảy lênh
láng, từng thân người đổ xuống, tiếng la hét vang trời. Ở nơi nghỉ đêm,
tôi nhớ đến vị tân Giám Mục vừa thụ phong, ngài nghĩ gì khi con cái của
ngài bị đánh tan tác? Những lẵng hoa tươi thắm và hoành tráng đắt tiền
mà nhà cầm quyền các cấp, các ban ngành đoàn thể, mang đến mừng ngài có
còn ý nghĩa gì nữa không? Ngay từ chiều hôm trước ngày thụ phong, ngài
nói chuyện với chúng tôi với những nét băn khoăn trên gương mặt, ngài
buồn buồn ngỏ lời tha thiết xin chúng tôi cầu nguyện cho Giáo Phận, cho
anh chị em ở Mỹ Yên.
Rời Vinh, chúng tôi ra Hà Nội rồi đi Hưng Hóa, cơn mưa tầm tã cả ngày 5
tháng 9 khiến Ban Tổ Chức lễ thụ phong Giám Mục phải quyết định cử hành
Thánh Lễ bên trong Nhà Thờ Chính Tòa Giáo Phận. Những trận mưa làm lở
núi đất, tắc nghẽn giao thông. Có một cha trên đường về tham dự Lễ bị
đất đá bít đường, núi sạt lở, trong khi ngồi bên đường chờ giải tỏa,
ngài nhìn thấy ngay trước mắt mình chiếc xe có container đậu lại, bị lún
đường, nghiêng dần và lăn xuống vực. Mưa và lũ đã ngăn trở các Giáo Dân
Giáo Phận Hưng Hóa về tham dự Lễ thụ phong Giám Mục của mình. Lời cám ơn
cùng với những lời chúc tụng trong ngày tấn phong vị tân Giám Mục có
khẩu hiệu "Mang lấy mùi chiên" lập tức có… "mùi" thật. Chiều hôm đó, tin
tức loan đi cùng với số thiệt hại về của cải cũng như nhân mạng không nhỏ.
Chuyện lũ chuyện lụt gây chết người, mất mát của cải năm nào cũng xảy
ra. Vỗ ngực xưng mình là tiến bộ, cách mạng công nghiệp, từng bước đi
lên vững chắc, vậy mà có mỗi cái chuyện "cỏn con" là ngăn chặn phá rừng,
ngăn chặn khai thác khoáng sản, đào bới núi rừng, quy hoạch hợp lý và
khoa học hệ thống thủy điện cũng không làm nổi, để rồi cứ thế hàng năm
cứ có người chết, cứ có thiệt hại lên đến con số hằng chục tỷ. Ai chết
cứ chết, ai đau đớn cực khổ cứ cực khổ, kẻ giàu có cứ phát lên, thu tóm
của cải đầy túi, ngông nghênh giữa bàn dân thiên hạ. Học trò lớn bé cứ
phải nhai đi nhai lại mãi bài học về chiến thắng của Cách Mạng Xã Hội
Chủ Nghĩa, về vinh quang của giai cấp vô sản… Điểm dưới trung bình mấy
loại bài này thì đừng mong tốt nghiệp!
Ngày lễ đã trôi qua, trong cái mệt mỏi sau đó, hẳn Đức Cha Phụ Tá Giáo
Phận Hưng Hóa đã không thể ngủ được, khi ngay trên địa bàn ngài được
giao nhiệm vụ coi sóc đã xảy ra những chuyện thê lương như vậy. "Mùi
chiên" thánh thiêng của Con Chiên mang tên Giêsu ngay lập tức được hòa
vào mùi tử khí, mùi tan hoang, mùi đau khổ của đàn chiên nghèo 10 tỉnh
miền Tây Bắc.
Tôi đã hứa cầu nguyện và đồng hành với các ngài, lòng tôi cũng chẳng
được nghỉ yên.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 8.9.2013
Nguồn: Ephata 578
và âu lo, một tuần lễ cho hành trình "xuyên Việt" với nhiều cảm xúc đối
nghịch, những bâng khuâng muộn phiền, những trăn trở dằn vặt… Tất cả đã
không cho tôi một giấc ngủ sâu thư giãn…
Tôi rời Sàigòn đến Vinh tham dự lễ thụ phong Giám Mục của Đức Cha Phụ Tá
Giáo phận Vinh. Giáo Dân Vinh khoảng 500.000 người, quy tụ phần lớn ở
tỉnh Nghệ An, một phần còn lại ở hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Dân
Vinh xưa nay vẫn "máu lửa", cứ nhìn những trận bóng đá có câu lạc bộ
Sông Lam Nghệ An tham dự thì biết, vàng rực cả một sân bóng, dù trận cầu
đá ở bất cứ đâu, xa đến mấy thì các cổ đông viên vẫn tìm đến, ủng hộ hết
mình.
Tòa Giám Mục Xã Đoài ngày 4 tháng 9 hôm ấy cũng vậy, một ngày trước đó,
lớp lớp người đã ùn ùn kéo về, Ban Trật Tự đã phải làm việc cật lực,
đường dẫn vào Tòa Giám Mục vừa trải đá đã được tưới nước liên tục để
tiếp đón trên dưới 200.000 người về dự. Lễ xong, thoát ra khỏi khu vực
hành lễ quả là một kỳ tích. Thánh Lễ kéo dài gần 3 tiếng đồng hồ hết sức
chu đáo và trang trọng cả hình thức lẫn nội dung.
Nhưng ngay sau một niềm vui thánh thiện của Giáo Phận, lúc 14g00 cùng
ngày, trên các mạng xã hội đã nhanh chóng loan tin tức và hình ảnh về
cuộc tấn công vào Giáo Dân tại Mỹ Yên, Nghi Phương, Nghệ An. Chiều hôm
ấy chúng tôi như ngồi trên lửa, nỗi lo lắng muộn phiền bàng hoàng, lấn
át cả niềm vui, lòng dạ đau như cắt khi nhìn thấy cảnh máu chảy lênh
láng, từng thân người đổ xuống, tiếng la hét vang trời. Ở nơi nghỉ đêm,
tôi nhớ đến vị tân Giám Mục vừa thụ phong, ngài nghĩ gì khi con cái của
ngài bị đánh tan tác? Những lẵng hoa tươi thắm và hoành tráng đắt tiền
mà nhà cầm quyền các cấp, các ban ngành đoàn thể, mang đến mừng ngài có
còn ý nghĩa gì nữa không? Ngay từ chiều hôm trước ngày thụ phong, ngài
nói chuyện với chúng tôi với những nét băn khoăn trên gương mặt, ngài
buồn buồn ngỏ lời tha thiết xin chúng tôi cầu nguyện cho Giáo Phận, cho
anh chị em ở Mỹ Yên.
Rời Vinh, chúng tôi ra Hà Nội rồi đi Hưng Hóa, cơn mưa tầm tã cả ngày 5
tháng 9 khiến Ban Tổ Chức lễ thụ phong Giám Mục phải quyết định cử hành
Thánh Lễ bên trong Nhà Thờ Chính Tòa Giáo Phận. Những trận mưa làm lở
núi đất, tắc nghẽn giao thông. Có một cha trên đường về tham dự Lễ bị
đất đá bít đường, núi sạt lở, trong khi ngồi bên đường chờ giải tỏa,
ngài nhìn thấy ngay trước mắt mình chiếc xe có container đậu lại, bị lún
đường, nghiêng dần và lăn xuống vực. Mưa và lũ đã ngăn trở các Giáo Dân
Giáo Phận Hưng Hóa về tham dự Lễ thụ phong Giám Mục của mình. Lời cám ơn
cùng với những lời chúc tụng trong ngày tấn phong vị tân Giám Mục có
khẩu hiệu "Mang lấy mùi chiên" lập tức có… "mùi" thật. Chiều hôm đó, tin
tức loan đi cùng với số thiệt hại về của cải cũng như nhân mạng không nhỏ.
Chuyện lũ chuyện lụt gây chết người, mất mát của cải năm nào cũng xảy
ra. Vỗ ngực xưng mình là tiến bộ, cách mạng công nghiệp, từng bước đi
lên vững chắc, vậy mà có mỗi cái chuyện "cỏn con" là ngăn chặn phá rừng,
ngăn chặn khai thác khoáng sản, đào bới núi rừng, quy hoạch hợp lý và
khoa học hệ thống thủy điện cũng không làm nổi, để rồi cứ thế hàng năm
cứ có người chết, cứ có thiệt hại lên đến con số hằng chục tỷ. Ai chết
cứ chết, ai đau đớn cực khổ cứ cực khổ, kẻ giàu có cứ phát lên, thu tóm
của cải đầy túi, ngông nghênh giữa bàn dân thiên hạ. Học trò lớn bé cứ
phải nhai đi nhai lại mãi bài học về chiến thắng của Cách Mạng Xã Hội
Chủ Nghĩa, về vinh quang của giai cấp vô sản… Điểm dưới trung bình mấy
loại bài này thì đừng mong tốt nghiệp!
Ngày lễ đã trôi qua, trong cái mệt mỏi sau đó, hẳn Đức Cha Phụ Tá Giáo
Phận Hưng Hóa đã không thể ngủ được, khi ngay trên địa bàn ngài được
giao nhiệm vụ coi sóc đã xảy ra những chuyện thê lương như vậy. "Mùi
chiên" thánh thiêng của Con Chiên mang tên Giêsu ngay lập tức được hòa
vào mùi tử khí, mùi tan hoang, mùi đau khổ của đàn chiên nghèo 10 tỉnh
miền Tây Bắc.
Tôi đã hứa cầu nguyện và đồng hành với các ngài, lòng tôi cũng chẳng
được nghỉ yên.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 8.9.2013
Nguồn: Ephata 578
Subscribe to:
Posts (Atom)