Sunday, November 27, 2011

Khoe Đạo

Gặp Gỡ Trên Đường Truyền Giáo

Năm 1989, mình về thăm quê hương Hiền Quan, sau 37 năm xa cách. Mình đi thật nhiều, để “trả thù” 14 năm bó cẳng ở Cà Mau. Mình đến thăm một họ đạo nhỏ bé : giáo dân chỉ có chừng 200 nhân danh. Nhà thờ nhỏ xíu, mái ngói rêu phong, vách ván mốc thếch, tượng Chúa và các Thánh sơn phết tèm lem, chân đèn tróc sơn loang lổ như làn da ghẻ lở. Ông trưởng ban hành giáo ngỏ lời với mình :

- Cha ở trong Nam ra, xin cha sắm cho chúng con một bộ Kèn Tây.

- Nghèo thì lo cơm ăn áo mặc, sắm Kèn Tây làm chi. Và còn phải lo truyền giáo chứ.

- Mình phải hơn người ngoại, thì người ngoại mới theo đạo mình.

- Như vậy là khoe đạo chứ không phải là truyền đạo đâu.

Ông trưởng ban hành giáo cười trừ và làm thinh.

* * *

Năm 1978, giáo dân từ Hà Nam Ninh dắt díu nhau vào thành lập nông trường U Minh. Có cơm ăn, có áo mặc, nhưng thiếu nhà thờ và thiếu thánh lễ. Bức xúc chịu không được, một ông cao niên đến gặp mình.

- Con xin phép lạy cha. Xin cha giúp đỡ để chúng con có nhà thờ, có cha xứ và có Thánh lễ. Chúng con tưởng rằng trong này thì thiếu gì nhà thờ. Ai ngờ… đồng không mông quạnh. Ở quê con, nhà thờ to lắm chứa được cả triệu người ấy.

- Theo luật xây dựng, nhà thờ chứa được một triệu người, thì phải có diện tích một triệu mét vuông. Một triệu mét vuông tức là một cây số vuông đấy.

- Xã của chúng con toàn tòng Công giáo, không có một người ngoại nào chen vào được.

- Như vậy là men không chịu ở với bột. Men để trong chai, trong bọc nilông. Men ấy sẽ mốc.

Mình nói thế mà ông cao niên không hiểu. Ông cứ tủm tỉm cười, cười một cách mãn nguyện.

* * *

Ba người lạ mặt đi xe ôm đến thăm mình. Lịch sự. Sáng láng. Mình ở vùng sâu vùng xa mà có khách đến thăm thì thích lắm. Ai ngờ.

- Họ đạo chúng tôi mới xây xong nhà thờ, còn thiếu cái tháp. Xin cha giúp chúng con với.

- Các ông xây mấy tháp và tháp cao bao nhiêu ?

- Chúng con xây hai tháp y như Nhà thờ Chính Tòa Sài Gòn.

- Họ đạo các ông có bao nhiêu giáo dân ?

- Chúng con có bốn trăm.

- Có bốn trăm giáo dân mà xây nhà thờ lớn làm chi ?

- Không xây thi thua người ta sao. Giáo họ nào cũng phải có nhà thờ. Nhà thờ nào cũng phải có tháp. Tháp nào cũng phải có chuông. Hai ba chuông.

Mình coi bản thiết kế. Hai tháp chuông cao hai mươi mét. Mình nhỏ nhẹ tâm sự :

- Cái Rắn tôi vẫn chưa có tháp, thì làm sao tôi giúp các ông xây tháp được. Ở đây có nhiều người nghèo quá, giúp cơm áo cho người nghèo chưa xong, thì lấy tiền đâu mà giúp các ông xây tháp.

Mình chỉ trao cho họ vài trăm ngàn để trả tiền xe ôm. Họ ra về. Buồn man mác. Đành phải vậy thôi.

* * *

Cách nay một nửa thế kỷ mình chứng kiến một cảnh rước kiệu Đức Mẹ thật hoành tráng :kiệu thì sơn son thếp vàng; người đi kiệu thì trùng trùng điệp điệp; cờ xí thì hằng hà sa số, tung bay phất phới; kèn đồng thổi lên nghe như sấm như sét…

Đoàn người đi kiệu chiếm hết lòng đường quốc lộ. Xe cộ ùn tắc như một bãi ốc bươu vàng. Tài xế và hành khách trên xe đò đều thở dài ngao ngán. Vài người thiếu tế nhị văng tục um sùm.

Mình ngồi trên xe vừa nghe hành khách chửi thề vừa nghe tiếng cầu kinh của đoàn người đi kiệu. Chẳng biết nên vui hay nên buồn. Người đi kiệu thì hãnh diện vô cùng. Người ngồi trên xe thì ấm ức quá chừng.

* * *

Bây giờ ngồi nghĩ lại chuyện xưa, mình thấy bối rối quá chừng. Mình sực nhớ dụ ngôn “Men trong bột”. Áp dụng vào văn hóa Việt Nam, mình đặt tên là “Men trong nếp”.

Để men biến thành cơm rượu, men phải có ba điều kiện : chỉ là một thiểu số; trộn đều trong nếp; âm thầm trong bóng tối.

Nhưng tiếc thay, đồng đạo của mình không muốn làm men theo những điều kiện trên. Chính vì thế :

Họ hãnh diện khoe : “ Xã tôi toàn tòng Công giáo, không có người ngoại đạo nào chen vào được”. Mình liên tưởng đến hũ cơm rượu ở nông thôn miền Nam. Nếu men không chịu trộn đều trong nếp thì : nếp bị thiu, men bị mốc. Họ đạo thì vẫn còn đó với nhà thờ hoành tráng và kinh kệ rền rĩ. Nhưng Đức Giêsu thì không thấy đâu. Mình đan cử một chuyện đã xảy ra tại một gíáo xứ kia :

Có một bà góa chửa hoang. Thế là vè vãn được sáng tác tràn lan. Trẻ con nghêu ngao đọc vè để chế giễu. Ông chánh trương tổ chức một buổi họp để giải quyết chuyện chửa hoang này. Ông nói với đứa con trai của bà góa : “Mày phải nhớ rắng : bây giờ mày là chủ của cái nhà này chứ không phải mẹ mày, bởi vì mày phải nuôi mẹ mày đi để giữ lấy gia phong”.

Mình tự hỏi, nếu Đức Giêsu có mặt ở đó, thì Ngài có giải quyết như thế không? Chắc chắn là không. Ngược lại, Ngài sẽ bảo ông chánh trương : Nếu ông sạch tội, thì hãy đuổi người đàn bà này đi.

Mình tự nghĩ, ông chánh trương này là tín đồ đạo Nho chứ không phải là Kitô hữu. Ông hành xử theo quan niệm Nho giáo : đàn bà có ba cái “theo”, theo cha, theo chồng, theo con.

Cả họ đạo ấy đều theo ý kiến của ông chánh trương. Thế là họ đánh mất Đức Giêsu rồi. Chỉ còn lại Đức Khổng.

Họ muốn có Kèn Tây, họ muốn có tháp cao và muốn có chuông to, để hơn người ta, để hơn người ngoại. Như vậy là khoe đạo chứ không phải truyền đạo.

Khoe đạo không làm cho người ngoại mến đạo mà còn làm cớ cho họ ghét đạo. Người khiêm nhu được mọi người quý mến. Người kiêu ngạo bị mọi người ghét bỏ. Đạo cũng vậy.

Chính vì thế mình chỉ mơ ước một thánh đường đơn sơ, mát mẻ, dễ cầu nguyện, chứ không cần hoành tráng. Mình không thích một áo dài thêu kim tuyến của các bà mệnh phụ. Mình chỉ thích một áo dài trắng đơn sơ của cô nữ sinh, vừa đẹp, vừa dễ thương. Mình thích truyền đạo chứ mình không thích khoe đạo.

LM. Piô Ngô Phúc Hậu
Bài giảng Chúa Nhật
TGP/SG tháng 10/2011

Sunday, November 20, 2011

Change of Heart

Moms, have you ever had to say to your children:
“Do you know how to fill the ice cube trays?”
“Do empty milk cartons belong in the fridge or the trash bin?”
“Do you know the difference between laundry basket and the floor?”
Or, “Toilet rolls do not grow on the holders!”
“Dishes and silverware do not fly to kitchen sink or dishwasher by themselves!”

Parent’s Dreams and Expectations

Parents have dreams for their children. They want the very best for their children. They imagine their children as successful, well-rounded, good manner, good characters, involved, both interested and interesting. Every parent also expects that their children listen to them and obey them. When parents give instructions, they want their children to respond immediately. They don’t want to hear, “I will do it later.” “I will do it after the program ends,” or “when this game is over,” or “when I finish talking to my friends.” They expect their children to do what they ask them to do right away. Parents want and try to map out a course of obedience that will lead their children to success.

But we children do not always do what our parents expect us to do. When I was a kid, most of the time I responded to my parents’ instructions out of fear or out of a sense of obligation. I had to do it or face negative consequences. Parents, however, don’t want children to obey simply out of fear or because they "have to." Children will not learn to think for themselves and become confident if they only learn to obey out of fear or because they have to. We also do not want a lifetime of over-scheduled calendars for our kids and then act as “helicopter parents” or as a surveillant camera trying to protect our children from mistakes either. Actually it is impossible to do that even some parents have attempted to do so. It seems that children need the freedom to make their own choices in order to grow. We can teach them to think, to reason and to understand right from wrong, to make the choice and to face the consequences. But they have to make the decisions. This means that they will make mistakes. They will not always choose wisely. They will not always do the right things. They will listen to the wild ideas of their peers while the cautions of their parents go unheeded. They will act according to their impulsive desires and instant gratification. They will put off important tasks until the last minute and then fly into a panic. In fact, all of us have gone through these experiences one way or another.

A story about parenting

In the Gospel reading today, Jesus tells us a story about a parent who had two very different sons. The “No-then-yes son” and the “Yes-but-no son.” The father’s expectation is clear. "Son, go out to work in vineyard today." He says with authority. This is not just a request. It is also not a recommendation. It is an order. It is also not tomorrow or next week, but today. The first son refuses outright, “No, I will not.” But later changes his mind, stops his rebellion and goes out to the vineyard to work. Despite his initial resistance, he obeys his father.

The second son is more devious. He puts on a good face and immediately agrees to his father's request, “Yes, sir!” He sounds to be a cooperative son. His actions however, do not measure up to his words. He ignores his father's order and never goes to the vineyard. He only talks a good game. He promises much and produces nothing of value.

Jesus asks the critical question, "Which of the two did the will of his father?" Some parents might have issued a punishment to both of these boys -- the first would be reprimanded for his rebellious attitude; and the second for actually ignoring the father’s order and did not follow through. Many of us might want to have another son. The one who would say “yes” and faithfully carry out his father’s wish. All parents would be delighted to have a son or a daughter like that. But I don’t think we can find this “perfect son or daughter” among us. None of us, young and old, can say that we have never said “no” to our parents. None of us can say that we have always “obeyed” or we have always carried out the wish that our parents expected of us. There are only two persons, Jesus and Mary, whom we can say that they are perfect son and daughter of God.

Story of Hope

So the story reveals that our heavenly Father has hopes and dreams for us. Jesus is telling us that our heavenly Father is the forgiving Father. He is willing to overlook the son’s original disobedient attitude once he realizes that he was wrong and wants to correct his mistakes. The son’s change of mind and heart to correct his mistakes and to carry through his father’s order pleases his father. His father is happy with him. It can be the same with us. There is hope. This story is a story about the change of mind and heart. When we have a change of mind and heart to correct our mistakes and do the right thing, we are heading toward heaven. God is there to welcome us.

Jesus points out the tax collectors and the prostitutes are like the first son. They are headed toward the kingdom. Despite their mistakes of the past, they have now chosen the right route. There are many examples in the Scriptures. Jonah, Moses, Peter, Matthew, Zachaeus, Mary Magdalene, Augustine and many others throughout human history have done that. They have walked the walk, even when it means backtracking from a poorly chosen path, and starting over down the narrow path toward eternal life.

We might have said no to God multiple times. We might say no to God because we're stubborn, afraid, doubtful, or because we want to do something else. Given the choice -- labor in the field, volunteer at the parish’s St. Vincent de Paul, visit the sick, teach CCE classes, join the choir, forgive someone who did you wrong, reconcile with someone estranged from you or spend another hour in front of your computer surfing the internet, checking out Facebook, or watching TV -- what would you choose?

We may say "No" to God because we feel overworked. The first son could have refused his father because he believe he had already done enough. He can excuse himself and have a break. Perhaps he considers his contribution to the family to be extensive. Clearly the father thinks otherwise and is not prepared to offer his son an early retirement package. The father sees what the son is capable of and demands more. The son has a "Who me?" moment -- haven't I already done enough for this family? But at the end, he decides to be cooperative. He goes to the vineyard to work.

We might be tempted to say -- "no, let someone else do it. I've already given." Or, "that's too much to ask of me". Or, "I don't think I'm up to that challenge". The story is good news for anyone who doubts his ability to make a difference and decides not to even try. It is also a story to give hope for anyone who has ever pushed the snooze alarm one too many times and missed an important appointment or late for class. The first son clears the path for naysayers and hesitant, unsure want to-be disciples alike.

It is clear that God does not expect perfection. God wants us to learn from our mistakes, put our failings behind us, and then choose to do the right thing. This story of compassion and forgiveness is good news for anyone who can remember moments of disobedience, times of ignoring the rules, or periods of poor choices, days and months of excuses not to participate in any church’s activities or ministry. For those who have sinned and fallen short of the glory of God, there is a message of welcome and an invitation to try again. Past blunders will not be counted against them when they are followed by both a change of heart and a change of course. God is willing to look past our many weaknesses and failures and invites us to put our earlier bad choices behind us and decide to carry out God’s will and dream for us. It is never too late for us to turn back to God. All that is necessary is to say "Yes" to God, and offer hands, hearts and spirit to God's service. So are you ready to go to the vineyard?

Rev. John Kha Tran
(http://nguoitinhuu.com/)

Sunday, November 13, 2011

Để Lòng Thảnh Thơi Đừng Đoán Xét Người

Ở đời con người ta thường đem đến cho mình những bận tâm, những suy nghĩ, xem ra chẳng phải chuyện của mình, thế có phải là điều khôn ngoan cho chính mình hay không?.   Tại sao chúng ta phải tìm vết hay tìm lỗi của người mà trách móc, hay đoán xét một cách thiếu đúng đắn, vô cớ, chẳng có bằng chứng?.   À, sao con người chúng ta lại nhiều chuyện thế nhỉ?.   Thay vì vui vẻ, hoạt bát, cảm tạ Thiên Chúa ban cho chúng ta đủ mọi điều, để làm những điều hay, điều lành, mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm.   Chúng ta phải có trách nhiệm bản thân của mình trước đã, kế đến là mọi phần tử trong gia đình của mình, rồi đến sự quan tâm cho mọi người chung quanh chúng ta.

Ai sao mặc kệ, vì chính mình còn chưa tròn bổn phận, thì cớ gì chúng ta lại quá để ý đến chuyện của người khác?.   Nếu thế thì chúng ta thật có giờ và nếu thế thì chính chúng ta chỉ tìm những rối rắm của người khác mà vận vào người.   Cuộc đời của một con người suy đi nghĩ lại nếu chỉ thích dòm ngó gia đình người khác, để mà đoán xét người ta, rồi phê bình, rồi kết án người, thì quả chúng ta thật là một con người vô dụng; chỉ thích gom tất cả những rác rưởi của người khác mà đổ lên người của chúng ta. 

Chuyện nhà thì rối reng, tối như mực, nhưng chuyện người thì rất tỏ.   Sao chúng ta chẳng biết sống cho ra sống? Có nghĩa sống vui, sống khỏe, sống lạc quan, và có hữu ích cho chính mình, và cho mọi người.   Sao chúng ta sống mà không bắt chước gương của Chúa Giêsu là sống một cuộc đời thật lành mạnh, có tự do cho chính mình, bình dị từ trong tư tưởng cho đến lời nói, và việc làm.   Tự do có nghĩa rất phong phú trong tinh thần như cuộc đời của Thánh Franciso Assasi chẳng hạn.   Đó mới quả thật có tự do và là sự thoải mái trong cuộc đời.   Cứ tưởng tượng xem nhé, chúng ta có càng nhiều của cải bao nhiêu thì chúng ta càng có những phiền muộn cho mình bấy nhiêu.   Ối chao nào là phải làm nô lệ cho tất cả những gì mình có. 

Đi đâu phải cửa nẻo khóa cho thật chặt kẻo sợ ăn trộm vào nhà mà lấy của quý?.   Đến đâu cũng sợ không được an toàn vì nào là xe xịn phải kiếm được cho ra chỗ đậu xe thật an toàn; có nghĩa đậu được trước cửa tiệm thì là tốt nhất, nhưng thỉnh thoảng cũng phải đi ra dòm chừng xem còn đấy không?.   Đeo chiếc nhẫn hột xoàn ít là 1 ca ra, thì lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị chúng giật hay hành hung để lấy cướp; không thì sợ có lúc hột nó rơi ra lúc nào không hay, thì vài chục ngàn nó đi chơi một cách rất vô lý và thật là đau tim, và là chuyện đại sự cho gia đình vì đánh mất của quý.   Rồi thì cứ phải bận tâm mà giữ chúng cho không bị trầy trụa hay rách vì ví mua cả mấy ngàn đồng bạc, giầy mua cả mấy trăm đô, đồng hồ tên hiệu, và vàng vòng đeo đầy trên người, đi ngoài đường thiên hạ chỉ thấy mình là “cái kho tàng biết đi”.

Tại sao chúng ta lại muốn khoe của khi nơm nớp sợ phải đeo chúng?.   Có phải chúng ta hay đánh giá người và hay đoán xét người, nên sợ bị người ta đánh giá và đoán xét ngược lại?.   Tâm lý con người ta thật làm cho chính mình mất hết cả nhân bản sống, mất hết cả giá trị chính mình, mất tự tin, và mất đi tình người, chỉ vì mình chọn làm nô lệ cho vật chất, và thiếu tự tin quá mức.   Thử nghĩ xem trên đời mà chúng ta sống trong sợ hãi thì còn gì là cuộc sống, mà nhất là được đang sống trong một nước Tự Do.   Nhưng theo nhiều nơi thì cái  nghĩa đen của Tự Do chỉ đặt nặng trên vấn đề vật chất mà không đi sâu vào cái tâm của con người.   Chứ nếu chúng ta là con cái Chúa thì cái nghĩa Tự Do ấy mới thật rộng và thật thoải mái, nếu chúng ta luôn sống với tinh thần Phúc Âm Chúa dậy.

Chúa dậy chúng ta hai Giới Răn thật quan trọng thay để giữ đạo làm người và làm con cái Chúa, là Kính Chúa trên hết mọi sự và yêu người như yêu chính mình, đó là điều mà Thánh Nhân Francisco Assasi đã chứng minh cho tất cả chúng ta nên bắt chước gương của ngài.   Còn gì thong dong và thong thả trong cuộc đời cho bằng, chẳng phải nghĩ ngợi ăn gì, uống gì, hay mặc gì, khi mà chim muông chúng còn được Thiên Chúa chăm sóc cho chúng đầy đủ; chẳng một con nào rơi xuống đất mà Chúa không biết.   Chẳng gieo,  chẳng cửi ấy thế mà áo choàng của Vua Salomon còn không đẹp bằng những cánh hoa thật đẹp đẽ mọc khắp mọi nơi, trên cánh đồng, hay nơi hoang dã.

Vâng, nếu chúng ta muốn được thật sự có tự do, xin hãy để cho chính mình, đầu óc, tinh thần, và tâm hồn của mình được thoải mái và sống trong yên hàn.   Ai sao thì mặc ai, đừng để ý, đừng dòm chừng, đừng phê phán, đừng so sánh, và đừng làm gì người cả; vì chúng ta là ai mà dám đoán xét anh chị em mình?.   Chẳng phải Thiên Chúa ban cho chúng ta mỗi người một riêng biệt và có sự khác nhau? Có thế chúng ta tất cả hợp lại mới trở thành một thân thể tuyệt vời của Chúa.   Tuy thân thể ấy có những lúc bệnh hoạn tật nguyền, nhưng có Chúa là Đầu, là Khối Óc, và là Sự Điều Khiển cho tứ chi làm việc. 

Xin mỗi một người chúng ta hãy là thân thể lành mạnh của Chúa, là hãy để Chúa làm chủ cuộc đời của mình; là hãy để cho Người điều khiển chúng ta theo ý muốn của Người.   Hãy cởi bỏ tất cả những gì là bụi bậm của trần gian mà hãy khoác lên người chiếc áo của Thiên Chúa muốn mặc cho chúng ta là chiếc áo “Yêu thương” của Chúa; là những gì rất ý nghĩa được tóm gọn trong bài Kinh Hòa Bình của Thánh Nhân Francisco Assasi.   Amen.      
 
Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai

20-10-2011

http://dongcong.net/misc/TuyetMai_A/linh-tinh/de-long-thanh-thoii.html 

Saturday, November 5, 2011

Bệnh bè phái chia rẽ

Ðây là căn bệnh trầm kha nhất. Vô cùng nguy hiểm vì nó thường là căn nguyên của các bệnh khác.

Một cơ thể mà các tế bào chống nhau thì làm sao sống được. Nội bộ một cộng đoàn mà chưa hợp tác với nhau được thì đừng nên bàn chuyện đấu tranh, giải phóng. Ai ở thôn quê đều biết hoàn cảnh cấy lúa. Một mảnh ruộng cần cả chục người cấy suốt ngày. Lưng đội trời nóng cháy da, tay xé lúa nhấn xuống bùn, bẩn và mệt. Nhưng cũng miếng ruộng đó chỉ cần một người thôi là chỉ trong vòng vài ba tiếng đồng hồ là nhổ sạch. Xây khó, phá rất dễ.

Một cách hay nhất để tránh và chữa bệnh này là lắng nghe người khác, sẵn sàng chấp nhận cái khác của người. Câu chuyện tổng thống Lincoln nước Mỹ là một bài học. Trong cuộc chiến Nam Bắc, ngày nọ trước ba quân ông xuống lệnh hành quân. Một anh sĩ quan phản đối và cho rằng Lincoln điên khi hạ lệnh đó. Có người vào báo cáo. Lincoln cả giận. Nhưng thay vì tức khắc cho thi hành kỷ luật đối với thuộc viên, ông cho mời người đó vào. Và sau khi nghe trình bày phải trái, Lincoln đổi ý, trao trách nhiệm lớn cho vị sĩ quan đó. Ông biết lắng nghe nên đã tránh được đổ vỡ lớn cho binh sĩ và quốc gia.

Trong một giáo phận, một cộng đoàn, một hiệp hội, việc làm tổn thương, mất giờ để giải quyết nhất của Giám Mục, của những người có trách nhiệm, là chứng bệnh triền miên bè phái, chia rẽ - mà những người mắc bịnh thường vẫn tưởng mình đạo đức. Có nhiều người "phạm tội vì Chúa": lấy lý do "vì Chúa" mà loại trừ kẻ khác, không thuộc phe ta. Người Pháp đã nếm kinh nghiệm cay đắng tai hại của bịnh nầy nên có câu châm ngôn: "Ðừng vì kính mến Chúa mà chống kẻ khác". Chúa Giêsu biết trước điều nầy nên Ngài tha thiết cầu xin trước giờ tử nạn: "Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để thế gian tin Cha đã sai con" (Gioan. 17, 21). Nếu ta không hiệp nhất thì thế gian không tin. Lời ông Gandhi đáng cho ta suy nghĩ: "Tôi yêu Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu vì họ không giống Chúa Kitô".

Óc bè phái là một nguy cơ cho Hội thánh

Trong Hội thánh, óc bè phái là một phương thức chắc chắn nhất để giới hạn ảnh hưởng của Phúc âm.

Thánh Phaolô đã nói trong thư gửi Titô: "Cộng đoàn Kitô hữu là một môi trường, là một nơi nhà chung, ở đó chấp nhận mọi sự khác biệt.
Ở đó mọi người sẽ chung sức đấu tranh để nhân loại được hợp nhất.
Ở đó không có những ủy ban riêng biệt, không phân chia giai cấp, không mưu đồ cấu tạo những cộng đoàn đồng nhất nhưng lại khép kín, không có chỗ cho người không thuộc "phe ta"
(Ti. 2,1-14).

Xin Chúa cho con thành thực với chính mình con, kẻo con sống đạo đức theo lối "đạo đức trá hình" theo "óc bè phái", xây dựng những "pháo đài", những "lô cốt" kiên cố chỉ dung nạp những ai là đồ đệ của con,
Và làm cho bao tâm hồn, bao khả năng trong Hội thánh phải héo khô, cằn cỗi, nghèo nàn, thất vọng.
Bởi con độc ác, không cho họ một chỗ đứng nào trong Hội thánh, chỉ vì một tội là không theo "đàng nhân đức" của con, không phải đồng hương... đồng khói, không họ hàng linh tông, không thuộc "cánh ăn nhậu" với con.

Hội thánh không phải là
Chủ ông của Sứ điệp Chúa Giêsu
Mà là tôi tớ phục vụ sứ điệp ấy


Phúc âm là ân huệ mở rộng cho mọi người
Dù ở ngoài Hội Thánh cũng sử dụng được.

Ðiều quan trọng không phải là làm cho Hội thánh vinh quang, làm lợi cho giáo dân. Quan trọng là làm cho sức mạnh của sự thật Nước Trời được phổ biến đến mọi người. Chúa Giêsu dạy các Tông đồ: Ðừng ngăn cản người ngoài nhân danh Ngài mà trừ quỷ (Lc. 9, 49-50).

Ngài muốn cho chúng ta hợp tác huynh đệ với mọi người chứ không khư khư làm đại lý độc quyền về Sự thật.

Ở đâu có tình yêu cộng tác, ở đó có Chúa Giêsu.

Con phải phục vụ Hội thánh, làm tôi tớ khiêm tốn và trung thành của Sứ điệp Chúa Giêsu.
Chứ không phải là chủ ông quan liêu,
Gây trở ngại khó khăn, khiến người ngoài muốn tìm Chúa, phải hiểu lầm, thất vọng và xa cách.

Xin Chúa cho con năng xét mình.
Vì lời nào? Cử chỉ nào? Thái độ nào của con?
Mà người ta xa Chúa, thất vọng, hiểu lầm Hội thánh.
Con có vui mừng vì có nhiều sứ giả Phúc âm?
Có vui mừng hợp tác với họ, nâng đỡ họ?
Hội thánh khó tiến triển, vì có nhiều chủ ông của Phúc âm và hiếm tôi tớ trung thành phục vụ Phúc âm.

(Ghi lại bài nói chuyện của Ðức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận với Cộng Ðồng người Việt Công Giáo tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.09.1998)

+Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Niềm Vui Sống Ðạo (1998)

Sunday, October 30, 2011

Bệnh sống vô trách nhiệm

Triệu chứng: thờ ơ trước những khó khăn của Hội thánh và Quê hương, trước những đau khổ của người khác. Chả thấy mình có trách nhiệm gì cả. Hoá ra những người mắc bệnh này chẳng hiểu gì về phép Rửa, chẳng còn nhớ gì sứ mạng được trao qua phép Rửa đó. Qua phép Rửa, được làm con Chúa, đó là Hồng ân, và phép Thêm sức làm cho ta nên chiến sĩ của Chúa đó là trách nhiệm, mỗi người chúng ta được trao ban cả Nước Trời trong lòng mình, đồng thời cũng được giao phó sứ mạng phải loan báo cho mọi người về Nước Trời mình đang mang. Vì không ý thức và quan tâm nên họ giữ đạo hời hợt, sống đạo một cách vô trách nhiệm.

Ngày xưa cha Hậu (cố Olivier) ở Sàigòn thường nói với bổn đạo: Anh chị em phải biết, mình quả thật sung sướng vì được Chúa cho cả Nước Trời trong lòng. Anh chị em cũng giống như một người mang trong mình vé số độc đắc đã trúng mà chưa lãnh. Và bổn phận của anh chị em là chia sẻ ân huệ và niềm vui đó cho người khác.

Mỗi người trong xã hội đều có trách nhiệm riêng. Chứ không phải giáo dân thì cứ đổ cho cha xứ, Linh Mục thì đổ cho Giám Mục, Giám Mục lại chỉ tay về Giáo Hoàng. Như thế Giáo Hoàng lại đổ cho Chúa à! Thái độ phủi tay không giải quyết được gì. Mà mỗi người, tùy vị trí và hoàn cảnh riêng, trước hết phải xắn tay nắm lấy mà giải quyết nhiệm vụ của mình.

Ðừng ngồi đếm khuyết điểm,
Phải xung phong làm việc tích cực

Nhìn vào khuyết điểm, thất bại của anh em, để chỉ trích nhưng không ra tay giúp đỡ, là ích kỷ, là khôn ngoan thế gian, vì con sợ liên luỵ, sợ bẩn tay.

Nếu con yêu anh em thật sự,
Nếu con chỉ tìm sáng danh Chúa
Thì con phải thấy trách nhiệm của con đối với anh em, phải hợp tác, phải nâng đỡ, phải quyết tâm chiến đấu, phải xăn tay áo để làm việc, một lần chưa xong, phải làm lại nhiều lần để thắng sự dữ.

Làm lại cách nhẫn nại, làm lại cho tốt hơn trước, xây dựng lại, chỉnh đốn lại mọi sự.
Ðó là luật thực tế, luật lịch sử, luật tông đồ.
Thiên Chúa đã dựng nên con người cách kỳ diệu,
Và khi con người hư hỏng,
Chúa đã "làm lại" cách nhiệm lạ hơn nữa.
Mặc cho tất cả sụp đổ.
Phêrô, Phaolô, Hội thánh sơ khai vẫn tiếp tục, vẫn làm lại,
Với lòng tin sắt đá nơi quyền phép Thiên Chúa, nơi thiện chí và sức mạnh con người.

Trong Phúc âm nhiều người đã thất bại,
Nhưng Chúa Giêsu bảo phải làm lại ngay, không đợi chờ:
"Hãy ra về, và đừng phạm tội nữa" (Gioan 5,4)
"Hãy về bán của cải, phân phát cho kẻ khó... rồi theo ta!" (Mt. 19, 21).
Con hãy bắt tay vào việc, đừng ngoảnh mặt lui, hãy nhìn thẳng.
Thiên Chúa không thích những môn đệ tiêu cực.

+Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Niềm Vui Sống Ðạo (1998)

 

Sunday, October 16, 2011

Bệnh tùy hứng vô định

Người không có lý tưởng rõ ràng. Ðời vô định hướng. Ai xúi thì nhắm mắt làm theo, bất kể hay dở, khôn dại. Xong rồi phủi tay. Chẳng có dự án và chẳng có một người nào làm lý tưởng cho đời mình. Ðây là loại người tùy hứng.

Người ta hay nói đời là một giấc mơ. Nhưng đời có thật là một giấc mơ không? Mơ là chuyện mộng, không bắt buộc phải hiện thực. Nhưng đời trái lại là cuộc sống thực tế của mỗi người, bắt mình phải hoàn thành.

Thánh Kinh nói đến giấc mơ của Thánh Giuse. Ông mơ thiên thần báo phải đem Hài Nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập. Cái đặc biệt ở đây là Giuse đã thực hiện giấc mơ đó và nhờ vậy Chúa Giêsu thoát chết.

Người trẻ cần có lý tưởng và phải thực hiện cho bằng được. Nhưng phải định hướng cho trúng. Truyện kể có người khi còn trẻ quyết tâm sẽ thay đổi cả thế giới. Khi đứng tuổi thấy mình chả thay đổi được ai, bèn chuyển mục tiêu gần hơn: sẽ thay đổi gia đình mình. Ðến khi về già quay lại thấy mình cũng chả thay đổi được gia đình, mới nhận chân ra rằng muốn thay đổi gia đình hay thế giới trước hết phải thay đổi chính con người của mình đã!

Lao động, trí óc, đoàn kết, truyền thống
Là bí quyết của thành công

Con ở tù, nhưng trí óc con ở ngoài.
Con nghĩ đến tương lai Ðất - Nước,
Làm thế nào để xây dựng lại
Quê hương thân yêu và tang thương của con?
Mỗi cá nhân, mỗi giới đều có trách nhiệm.

Cách riêng đối với anh chị em công nhân,
Có thể tóm tắt trong bốn tiếng:
"Lao động, trí óc, đoàn kết, truyền thống".
Bí quyết để thành công.
Ðây là bốn yếu tố có tính cách liên kết,
chủ yếu không thể thiếu được,
đối với một người yêu nghề cách mê say.
Vì Thánh ý Chúa đã kêu gọi họ,
để họ thánh hoá môi trường họ đang sống
và để họ được thánh hoá trong môi trường ấy.
Xin Chúa cho những người anh em con,
ý thức vai trò quan trọng của họ,
biết tìm ánh sáng nơi lời Chúa,
và sức mạnh nơi Mình Chúa.
Nếu họ muốn, họ có thể biến đổi quả đất.

+Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Niềm Vui Sống Ðạo (1998)

Sunday, September 25, 2011

Biography of Cardinal Francis Xavier Nguyen Van Thuan

Biography of Cardinal Francis Xavier Nguyen Van Thuan
President of the Pontifical Council of Justice and Peace

Written by Coordinating Office of the Apostolate for the Vietnamese in the Diaspora

Francis Xavier Nguyen Van Thuan was born on April 17, 1928 in the central part of Vietnam, in Phu Cam parish, a suburb of Hue. He was the eldest of 8 children: Thuan, Niem, Tuyen, Ham Tieu, Thanh, Anh Tuyet, Thuy Tien, and Thu Hong. His father, Mr. Nguyễn Văn Ấm, passed away on July 1, 1993 in Sydney, Australia. His Mother, Mrs. Elizabeth Ngô Đình Thị Hiệp, daughter of the late Mr. Ngô Đình Khả, is now 100 years old. She currently resides in Sydney, Australia with her daughter, Anne Ham Tieu.

Thuan was born into a family with a long Catholic tradition, his relatives were among the martyrs since 1698.

From an early age, Thuan was brought up in a Catholic environment with deep faith, owing much to his exemplary holy mother, Elizabeth. Every evening she told her son stories from the Bible and those of the martyrs of Vietnam, especially of his ancestors. She introduced him to the example of St. Thérèse of Lisieux, taught him to love and forgive, and also taught him to cherish his homeland of Vietnam.

Thuan entered the An Ninh Minor Seminary in his early teens, and followed his studies in philosophy and theology at Phu Xuan Major Seminary. He was ordained priest on June 11, 1953 by Bishop Urrutia. The young priest was assigned to St. Francis parish to help with the transition from a French majority in that parish to a Vietnamese one. After a few months at St. Francis parish, Bishop Urrutia appointed him chaplain of the Pellerin Institute (where he himself had been educated), the Central Hospital, and the provincial prisons.

Only a few months as chaplain of the Pellerin Institute, the Central Hospital, and the provincial prisons, he was once again assigned by Bishop Urrutia to study in Rome. He spent three years (1956-1959) at the Urbanian University, a pontifical institute founded by Pope Urban VIII in 1627. He was awarded the Doctor in Canon Law Summa Cum Laude for his thesis on "Organization of military chaplains around the world".

Upon his return to Vietnam, he was assigned to teach at An Ninh Seminary of Hue, and then become its rector. He went on to serve as vicar general in the Archdiocese of Hue from 1964-1967. On April 13, 1967, Pope Paul VI appointed him Bishop of Nha Trang, the first Vietnamese Bishop of Nha Trang, replacing Bishop Raymond Paul Piquet, M.E.P. (Bishop of Nha Trang from 1957-1967).

He was consecrated Bishop on June 24, 1967, the solemnity of St John the Baptist, at Hue by H.E. Angelo Palmas, Apostolic Delegate for Vietnam, Laos, and Cambodia. He chose as his motto the title of the new constitution, Gaudium et Spes (Joy and Hope), because he desired to be an apostle of joy and hope.

During his eight years in Nha Trang, he spared no effort in the development of the diocese before the advent of difficult times. He focused on training the grassroots cadres, increasing the number of major seminarians from 42 to 147, and minor seminarians from 200 to 500 in four seminaries, organized In-service Courses for priests of 6 dioceses in Central Vietnam. He also organized other formation courses, such as: development and training of Youth associations, the laity, parish associations and parish councils with training courses for the Justice and Peace Movement, Cursillos and Focolare, and founded the Community of Hope and the LaVang Community.

Bishop Thuan wrote six circular letters for the formation of his diocese:
  • Awake and Pray (1968)
  • Strong in Faith, Advance with Serenity (1969)
  • Justice and Peace (1970)
  • The Mission of Christ is also our Mission
  • Remembering 300 years (1971)
  • Holy Years of Renewal and Reconciliation (1971)
Cardinal Thuan held various positions in the Vietnamese Episcopal Conference: He was Chairman of the Justice and Peace Committee, Social Communication Committee and the Development of Vietnam Committee in charge of Corev to assist in resettlement of refugees from the war areas. He was one of the founding members of the Catholic Radio Station ‘Radio Veritas’ Asia, Manila. He frequently attended the Asian Bishops Conference of Asia (F.A.B.C.). He was named Advisor of the Pontifical Council of the Laity from 1971-1975. It was during these meetings that he had the opportunity to meet Pope John Paul II, then Archbishop of Cracow, and to learn from him of pastoral experiences during the most difficult period in Poland under the communist regime. He was also appointed Advisor, then member of the Congregation for the Evangelization of the Peoples, and member of the Congregation for Divine Worship and the Discipline of Sacraments. The Congregation for the Evangelization of the Peoples also entrusted him with the responsibility of visiting and overseeing the Seminaries in a number of countries in Africa.

On April 23, 1975 Pope Paul VI named him Coadjutor Archbishop with rights of succession to the Archbishop of Saigon, and at the same time named him titular Archbishop of Vadesi. However the Communist regime did not approve this nomination and forced him to return to Nha Trang.

On the solemnity of the Assumption (August 15, 1975), he was detained and escorted to Nha Trang where he was held in house arrest at Cay Vong. Without ever being tried or sentenced, he was taken to North Vietnam where he was imprisoned for more than 13 years, nine of which were spent in solitary confinement at Vinh Quang (Vinh Phu) prison, then in the prison run by the Hanoi Police. Later, he was again held under house arrest at Giang-Xa. During his years of imprisonment he wrote ‘The Road of Hope’, the Spiritual Testimony (Will) to all the Catholic Vietnamese in Vietnam and abroad.

On November 21, 1988, Feast of the Presentation of Our Lady, he was released from detention and was ordered to live at the Archbishop's House in Hanoi, without permission to perform any pastoral work. In March 1989 he was allowed to visit his aged parents in Sydney, Australia, and travel to Rome to meet the Holy Father and return to Hanoi.

In 1991 he was allowed to travel to Rome but was not allowed to return. Ever since that time he lived in exile, though his heart was always with the Church in Vietnam and his homeland. He spared no efforts to assist social services in Vietnam. For example, leprosarium, charitable organizations, research programs to promote the culture of Vietnam and of the Catholic Church in Vietnam, reconstruction of churches, and the training of seminarians as conditions allowed. In spite of the persecutions imposed on the Church and on himself personally, he always lived and preached forgiveness and reconciliation.

In his life outside Vietnam, he was often invited to preach and lecture in many countries and to various audiences, for example at the Cathedral of Notre Dame de Paris during Lent, and at various universities in the world. At Mexico in May of l998, he preached to more than 50,000 young people. On May 11, 1996 he received an Honorary Doctorate at the Jesuit University in New Orleans, LA, USA. He also received other honorary titles and prizes including:
9 June 1999 – Roma: “Commandeur de l’Ordre National du Mérite” Embassy of France to the Holy See;
12 December 2000 – Rome (Campidoglio), Italy, Prize “Together for Peace Foundation”;
20 October 2001 –Turin, Italy, Prize for Peace (SERMIG – Associazione Missionaria di giovani);
9 December 2001 – Pistoia, Italy: Prize of Peace 2001, Center of Studies G. Donati.

On November 11, 1994 the Holy Father named him Vice President of the Pontifical Council of Justice and Peace, and subsequently President on June 24, 1998 replacing Cardinal Y. R. Etchegaray, who had retired.

During Lent 2000, he received a special invitation from Pope John Paul II to preach the Lenten Retreat to the Curia, at the beginning of the third millennium. When the Holy Father received him in private audience after the retreat, giving him a chalice, Cardinal Thuan said: “24 years ago I said Mass with three drops of wine and one drop of water in the palm of my hand, I never would have thought that today the Holy Father would give me a gilt chalice. Our Lord is great indeed and so is his love”.

On February 21, 2001 he was elevated to the College of Cardinals by the Holy Father, Pope John Paul II, who named him Cardinal of the Church of Santa Maria della Scala. This church is under the pastoral care of the Carmelite Fathers.

Since his release from prison, he had undergone 7 operations, 3 of which he suffered infections and was critically ill. The second to last operation was on April 17, 2001 at the Saint Elisabeth’s Medical Center in Boston, MA, USA. The last operation was on May 8, 2002 at the Centre of Research for Tumors in Milan, Italy.

His condition worsened at the beginning of June 2002 and received treatment at Agostino Gemelli Hospital, a teaching hospital attached to the Catholic Sacred Heart University in Rome. He was later transferred to Pio XI hospital for further treatment.

God called Cardinal Thuan home on September 16, 2002 in Rome.